24 tháng 9, 2011

Đọc tập sách “Chết Bởi Trung Quốc” (Death by China), phần 3

Chương 5: Death by Currency Manipulation: Couching Tiger, Nuking Dragon.
Chết Vì Thao Túng Tiền Tệ: Hổ Thu Mình – Rồng Công Phá (Hạt Nhân).

Hai tác giả dẫn lời ông Eric Lorke (thuộc nhóm Vận Động Cho Tương Lai Nước Mỹ - Campaign for America’s Future) cho rằng “Công nhân Hoa Kỳ có thể cạnh tranh hiệu quả đối với tiền tệ và công nhân Trung Quốc. Họ chỉ không thể cạnh trạnh khi tỷ giả đồng Mỹ Kim với đồng Nhân Dân Tệ (Yuan) bị thao túng”, để bắt đầu Chương 5 đề cập về những mánh lới thao túng tiền tệ của Bắc Kinh.



Nếu đồng tiền là căn nguyên của mọi tội ác, thì việc thao túng đồng Yuan của Trung Quốc là cội nguồn của mọi sai trái trong quan hệ mậu dịch Mỹ - Trung. Hơn một thập niên qua, thâm thủng mậu dịch kinh niên của Mỹ đối với Trung Quốc, đã làm chậm nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ một cách đáng kể và nâng cao tỷ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ. Trung Quốc đã khó có thể hút máu nền kinh tế Hoa Kỳ nếu không dở trò thao túng tiền tệ.

Trung Quốc thao túng tiền tệ bằng cách cố tình “neo” đồng Yuan đối với đồng Mỹ Kim ở một hối xuất cố định thấp hơn giá trị thật. Để hiểu tại sao điều này đã làm suy thoái nền kinh tế Hoa Kỳ, điều cốt yếu cần hiểu là nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng đều bị chi phối bởi bốn yếu tố: tiêu thụ (Consumption), đầu tư kinh doanh (business Investment), chi tiêu công (Goverment spending) và tổng mậu dịch (net export = xuất khẩu - nhập khẩu). Biểu thị bằng toán học, Tổng sản lượng quốc gia GDP = C + I + G + (X-M).

Động lực tăng trưởng sau cùng - tổng mậu dịch - là quan trọng nhất khi chúng ta bàn về thao túng tiền tệ của Trung Quốc. Và dưới đây là một nhận xét quan trọng nhấn mạnh đến vai trò của tổng mậu dịch trong nền kinh tế của chúng ta:

Khi Hoa Kỳ lâm vào thâm hụt mậu dịch kinh niên với Trung Quốc, điều đó làm giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Mỹ [GDP giảm khi (X-M) mang dấu âm]. Nhịp độ tăng trưởng chậm hơn này, kế đến, sẽ kéo giảm số lượng công việc làm mà Hoa Kỳ tạo ra.

Dĩ nhiên, khi kinh tế Hoa Kỳ chịu đựng sự tăng trưởng chậm và thất nghiệp cao thì Trung Quốc được hưởng kết quả ngược lại. Con Rồng vươn lên trong khi Hoa Kỳ suy thoái.

Tác giả đặt ra một số câu hỏi: Thâm thủng mậu dịch giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ lớn đến mức nào? Hoa Kỳ đã mất bao nhiêu việc khi lệ thuộc nhập khẩu từ Trung Quốc? Tại sao việc thao túng tiền tệ lại là lý do chính khiến Hoa Kỳ không thể giảm bớt thâm thủng mậu dịch một cách đáng kể? Theo tác giả thì nếu trả lời suông sẻ ba câu hỏi này thì Hoa Kỳ mới mong thoát ra khỏi bẫy thao túng tiền tệ của Trung Quốc.

Kích Thước Thâm Thủng Mậu Dịch Hoa Kỳ

Nếu xét trên kích thước tuyệt đối (absolutue size), Hoa Kỳ nhập khẩu từ Trung Quốc nhiều hơn xuất khẩu tới 1 tỷ Mỹ Kim hằng ngày; đúng như vậy, quý vị không đọc lầm hay đánh máy lầm: 1 Tỷ chứ không phải 1 Triệu.

Nếu xét trên kích thước tương đối (relative size), thân thủng mậu dịch Trung - Mỹ thật đáng kinh ngạc. Trung Quốc chiếm hơn một nửa tổng số thâm thủng mậu dịch hàng năm về hàng hóa của Hoa Kỳ với thế giới và hơn 75% nếu không tính những nhập khẩu dầu hỏa. Sau đây là một kết luận hợp lý về chính sách rút tỉa từ những thống kê:

Nếu Hoa Kỳ muốn giảm tổng thể thâm thủng mậu dịch để gia tăng tốc độ tăng trưởng và tạo thêm nhiều việc làm hơn, điểm khởi đầu tốt nhất là phải cải tổ chính sách tiền tệ với Trung Quốc.

Tương tự, tầm ảnh hưởng thực tế của việc lệ thuộc nhập khẩu từ Trung Quốc lên mức tăng trưởng và tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ, điều này cũng làm người ta điên đầu (this, too, is mindboggling). Hơn một thập niên qua, sự thâm thủng mậu dịch của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc đã lấy mất gần 0.5% tỷ lệ tăng trưởng của Tổng sản lượng nội địa (GDP) hàng năm.

Trong khi con số không có vẻ gì là lớn, nó lại tượng trưng cho một hậu quả tích lũy khiến kinh tế Hoa Kỳ đã không thể nào tạo ra hàng triệu việc làm lẽ ra phải có. Nếu chúng ta có những việc làm đó ngay bây giờ, cộng thêm hàng triệu việc làm sản xuất mà những thủ đoạn mậu dịch bất chính của Trung Quốc đã hủy diệt, chúng ta sẽ không nhìn thấy những đạo quân thất nghiệp sắp hàng vây quanh những tòa nhà chính phủ, những số lượng nhà cửa bị niêm phong và những nhà máy bỏ trống để cỏ mọc hoang. Thay vào đó, chúng ta đang bon bon tiến về phía trước.

Xin chú thích thêm, những con số thống kê đầy kinh ngạc này luôn nhắc chúng ta câu chuyện về Willie Sutton, tay cướp ngân hàng nổi tiếng. Khi người ta hỏi Sutton tại sao hắn cướp ngân hàng, câu trả lời trứ danh của hắn là: “Vì đó là nơi để tiền”. Tương tự, tìm tới nguồn gốc để giải quyết vấn đề, chính sự thao túng tiền tệ của Trung Quốc là nơi Hoa Kỳ có nhiều hy vọng nhất để cắt giảm thâm thủng mậu dịch – và khôi phục sự tăng trưởng kinh tế vững chãi.

Trung Quốc làm thế nào để thao túng tiền tệ? Họ đã thực hiện điều này hữu hiệu bằng chính sách neo cứng đồng Nhân dân tệ với đồng Mỹ Kim ở một tỉ giá rất thấp dưới giá trị thực: Khoảng 6 Tệ ăn một Mỹ Kim. Đồng Yuan hạ giá này cung cấp một trợ cấp béo bở cho các nhà xuất khẩu Trung Quốc trong khi đánh một mức thuế rất nặng lên những hàng hóa xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Trung Quốc. Kết quả của thủ đoạn thao túng tiền tệ này, phối hợp đồng bộ với những thủ đoạn bất chính khác mà chúng tôi đã đưa ra, đưa đến những thâm thủng mậu dịch kinh niên mà chúng tôi đã tính toán và đo lường.

Đây là điểm thao túng tiền tệ then chốt: sự bất cân xứng trong cán cân chi phó mậu dịch của Hoa Kỳ với Trung Quốc không bao giờ có thể kéo dài trong một thế giới tự do mậu dịch hoàn toàn tôn trọng luật chơi, trong đó Trung Quốc phải cho phép đồng tiền của họ hoạt động tự do bên cạnh những tiền tệ khác như đồng Euro, đồng Yen của Nhật, đồng Frank của Thụy Sĩ, đồng Real của Ấn Độ và đồng Dollar của Hoa Kỳ.

Trong một thế giới tự do mậu dịch mang đặc tính thả nổi hối xuất để thị trường quyết định, sự mất cân xứng cán cân chi phó mậu dịch Mỹ - Trung không bao giờ xảy ra, bởi vì khi mức thâm thủng mậu dịch của Hoa Kỳ xảy ra, đồng Dollar sẽ giảm giá so với đồng Yuan. Khi đồng dollar mất gá, hàng xuất của Hoa kỳ sang Trung Quốc sẽ tăng lên, hàng nhập Trung Quốc sẽ giảm, và mậu dịch sẽ quay về lại vị trí cân bằng. Tuy nhiên, bằng cách neo đồng Yuan vào đồng Mỹ kim, một Trung Quốc bảo hộ đã làm đảo lộn tiến trình điều chỉnh tự do mậu dịch, thậm chí còn phá hoại khung điều hành tự do mậu dịch toàn cầu xây dựng trên hứa hẹn phúc lợi hỗ tương.

Trung Quốc Tấn Công Hoa Kỳ Như Thế Nào?

Theo bản tin của tờ London Telegraph cho biết như sau: “Chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu một chiến dịch được phối hợp gồm những đe dọa đối với Hoa Kỳ, ngụ ý rằng họ sẽ có thể thanh ký số trái phiếu khổng lồ mà họ đang có, nếu Hoa Thịnh Đốn áp dụng biện pháp trừng phạt...Được mô tả như là “phương án hạt nhân” trong báo chí, một hành động như thế có thể sẽ làm cho đồng Mỹ Kim sụp đổ... Nó cũng sẽ khiến tăng vọt trái phiếu Hoa Kỳ, gây thiệt hại lớn cho thị trường địa ốc và có thể đẩy nền kinh tế Hoa Kỳ suy thoái hơn.”

Điều khá tệ hại là thủ đoạn thao túng tiền tệ của Trung Quốc đã đẩy nền kinh tế Hoa Kỳ mắc kẹt ngay từ đầu bằng cách hủy hoại hàng triệu công việc làm. Điều tệ hại hơn nữa, “Cái chết bởi sự thao túng tiền tệ của Trung Quốc” lại kéo theo “Cái chết của chủ quyền chính trị Hoa Kỳ”. Trọng tâm của vấn đề là sự đe dọa của các tay diều hâu chiến tranh đang điều hành ngân hàng trung ương của Trung Quốc. Những tay diều hâu này gọi đó là “phương án hạt nhân tài chánh” và nó bao gồm xử dụng ngoại tệ dồi dào của Trung Quốc để khuynh đảo các ngân hàng, thị trường chứng khoán, và thị trường trái phiếu Hoa Kỳ.

Để hiểu mối đe dọa “đánh gục gã khổng lồ” của Trung Quốc trên phương diện hệ thống tài chánh là xác thực đến mức nào, chúng ta sẽ không phí công khi mô tả chi tiết hơn cách Trung Quốc thao túng tiền tệ. Đơn giản là quá trình này bắt đầu khi bạn hay tôi bước vào một cửa hàng như Walmart chẳng hạn và mua một sản phẩn Trung Quốc, sau đó các đồng đô la này sẽ vượt đại dương. Tại điểm này, để duy trì chính sách neo chặt đồng Mỹ kim với đồng Yuan, Trung Quốc phải nhanh chóng hối chuyển “số đô la Walmark” của chúng ta trở lại nước Mỹ bằng cách mua những sản phẩm tài chánh như công khố phiếu, bất động sản hay những công ty của Hoa Kỳ, nếu không, áp lực ngược sẽ đẩy đồng Yuan lên giá.

Bây giờ, trò tiểu xảo hấp dẫn nhất trong thủ thuật thao túng tiền tệ sẽ là: Trước khi chính quyền Trung Quốc có thể hồi chuyển bất cứ đồng đô la Walmark nào của Hoa Kỳ, họ phải giành quyền kiểm soát những đồng đô la này từ tay những nhà xuất khẩu Trung Quốc đang tích lũy chúng. Điều này đòi hỏi một tiến trình vòng vèo được gọi là “quá trình thanh lý” (sterilization).

Để thanh lý những đô la Walmark của Hoa Kỳ, chính quyền Trung Quốc ép các nhà xuất khẩu trong nước phải mua công khố phiếu của chính phủ Trung Quốc, định giá bằng Mỹ Kim. Khi giao đồng Mỹ Kim, các nhà xuất khẩu Trung Quốc nhận được khoảng 4% tiền lời trên những trái phiếu thanh lý này. Sau đó, chính quyền Trung Quốc xoay vòng và tái đầu tư những đồng Mỹ Kim này vào công khố phiếu của Hoa Kỳ với lãi xuất ít hơn 2%. Trung Quốc do đó mất 2% hay nhiều hơn về lãi xuất cho mỗi Mỹ Kim được thanh lý, và khoản lỗ này lên đến hàng tỷ Mỹ Kim.

Câu hỏi đặt ra là tại sao Ngân Hàng Trung Quốc sẵn sàng gánh khoản lỗ khổng lồ như vậy? Đó là vì đảng Cộng sản Trung Quốc quan tâm nhiều hơn trong việc tạo công ăn việc làm để duy trì ổn định chính trị và độc quyền cai trị quốc gia hơn là thực sự kiếm tiền. Đó là một trong những khác biệt lớn giữa chủ nghĩa tư bản của Hoa Kỳ và chủ nghĩa tư bản đã bị nhà nước Trung Quốc bóp méo qua chủ trương “lợi mình - hại người” (beggar thy neighbor”. Và trong trò thao túng tiền tệ tận diệt này, nhiều việc làm mà Trung Quốc có được chính là những việc làm mà nền kinh tế Hoa Kỳ mất đi.

Thật vậy, tiến trình thao túng tiền tệ này của Trung Quốc đã đưa đến sự tích lũy ngoại hối hơn 2 ngàn tỷ Mỹ Kim nằm trong tay Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, tức là ngân hàng cho vay của người Mỹ. Nếu nhìn tổng thể trên tổng số đáng kinh ngạc này, nó cao hơn tổng sản lượng quốc gia của Ấn Độ hay Canada, và gần bằng GDP của Vương quốc Anh. Nó cũng lớn hơn GDP của ba nước Nam Hàn, Mễ Tây Cơ và Ireland gộp lại.

Ý nghĩa của tổng số đáng kinh ngạc này là: Trung Quốc có thể đem quỹ dự trữ ngoại hối của họ mua quyền kiểm soát của những đại công ty Hoa Kỳ được liệt kê trên Chỉ Số Dow Jonse của thị trường chứng khoán, bao gồm cả những đại công ty Microsoft, Exxon và Walmark, và vẫn còn dư tiền để mua đứt trên 50% cổ phần - tức quyền quyết định - của Apple, Intel và Ford.

Chính khối lượng tích lũy ngoại hối khổng lồ đó bây giờ cho phép đảng Cộng sản Trung Quốc đủ sức đe dọa “tấn công hạt nhân” hệ thống tài chánh Hoa Kỳ. Như Huệ Phấn thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc đã nói khi đe dọa rằng nếu giả sử Trung Quốc bắt đầu bán tháo đô la, sự rớt giá thê thảm của đồng Mỹ Kim sẽ rảy ra. Và như phần trích dẫn ở chương đầu này đã mô tả, một sự sụp đổ đồng đô la sẽ “khiến tăng vọt trái phiếu (bond yield) Hoa Kỳ, làm chao đảo thị trường địa ốc và có thể đẩy nền kinh tế rơi vào suy thoái”.

Trong thực tế, đã có chứng cứ rõ ràng rằng một Chú Sam khúm mún đã bắt đầu dâng hiến cho Trung Quốc ít nhất một vài chủ quyền chính trị của Mỹ do nguy cơ có thật của phương án tấn công hạt nhân tài chánh từ phía Trung Quốc. Đúng thế, giờ đây bất cứ lúc nào mà Tòa Bạch Ốc, Quốc Hội hay Đại diện phòng thương mại Hoa Kỳ lên tiếng đòi xóa bỏ các thực thi mậu dịch bất bình đẳng, Trung Quốc liền phản pháo bằng cách đe dọa bán tháo – và trong vài trường hợp có bán tháo thực sự - dự trữ đồng Mỹ Kim. Quả thực, sự hiện hữu của mối “đe dọa hạt nhân tài chánh” giải thích phần lớn hành vi rụt rè kinh niên đối với Trung Quốc của mấy đời Bộ trưởng tài chánh trong suốt thập niên qua, từ Hank Paulson dưới trào ông Bush cho đến Timothy Geithner dưới trào Obama.

Hoa Kỳ Mắc Kẹt?

Sự thao túng tiền tệ của Trung Quốc không chỉ làm mất chủ quyền chính trị của Mỹ, nó còn làm người Mỹ tự sa vào “cái chết từ sự tiêu hoang”. Hãy nhớ: trong quá trình thao túng tiền tệ, chính quyền Trung Quốc phải duy trì hối suất cố định giữa đồng Yuan và đồng Đô la, chủ yếu bằng cách mua công khố phiếu Hoa Kỳ. Theo cách này, người cho vay đến từ Trung Quốc đã giúp các chính khách Hoa Kỳ tài trợ cho mức thâm hụt ngân sách khổng lồ.

Sự kiện Trung Quốc giúp Hoa Kỳ tài trợ các chương trình như những kế hoạch kích thích tài chánh hàng loạt và việc in tiền dễ dàng của Ngân khố Hoa Kỳ không phải là sự mỉa mai nho nhỏ. Tựu trung, phần lớn bởi vì mức thâm thủng mậu dịch xuất huyết của Hoa Kỳ với Trung Quốc mà những chính trị gia Hoa Kỳ cảm thấy cần tiếp tục bơm hơi cho nền kinh tế với chi tiêu thâm thủng, thậm chí cả trong khi Hoa Kỳ tiếp tục lún ngày một sâu vào nợ nần với một chế độ độc tài toàn trị đang bòn rút cạn kiệt từ các nhượng bộ của Hoa Kỳ.

Thực vậy, toàn bộ quá trình đáng buồn này mà trong đó, Trung Quốc đóng vai nhà cho vay của nước Mỹ, là một phần của cuộc “mặc cả với Quỷ” (Devil’s bargain) mà sự thể là Tổng Thống Obama hứa hẹn ngay từ lúc nhậm chức sẽ mạnh tay với chủ nghĩa bảo hộ Trung Quốc và rồi đã thất hứa. Ổ đây, chúng ta cần nhớ rõ rằng trong chiến dịch tranh cử 2008, tại các tiểu bang công nghiệp chủ chốt vẫn còn đang do dự như Illinois, Ohio và Pennylvania, ứng cử viên tổng thống Barak Obama đã hứa đi hứa lại rằng sẽ chấm dứt các thực thi thương mại bất bình đẳng với Trung Quốc.

Từ khi nhậm chức, Bộ tài chánh của Tống thống Obama, dẫn đầu bởi Timothy Geithner như đã đề cập ở trên, đã từ chối nhiều lần việc quy tội Trung Quốc là quốc gia thao túng tiền tệ. Tuy nhiên, Hoa Kỳ có thể áp đặt những mức thuế đáp ứng thích hợp để loại bỏ một trong những chính sách bảo hộ quan trọng nhất của Trung Quốc. Nhưng thay cho việc thực thi lời đã hứa khi tranh cử, Tổng thống Obama đã chọn một cuộc mặc cả nguy hiểm với Quỷ: “Trung Quốc, các ông hãy tiếp tục mua công khố phiếu của chúng tôi, và chúng tôi sẽ không làm lớn chuyện cải tổ mậu dịch.” Theo cách đó, Tổng thống đã sai lầm khi đặt chính trị và những nhu cầu tài chánh ngắn hạn của chính quyền mình lên trên những viễn tượng phục hồi kinh tế dài hạn của Hoa Kỳ.

Thượng Nghĩ Sĩ Lindsay Graham, đảng Cộng Hòa thuộc Tiểu bang SC đã phát biểu: “Chúng tôi chán rồi. Chính sách bảo hộ của Trung Quốc đã làm tổn thương phần còn lại của thế giới, không chỉ mỗi nước Mỹ. Nó gây nên một cuộc suy thoái toàn cầu. Trung Quốc muốn được đối xử như một quốc gia đang phát triển, nhưng họ là một gã khổng lồ, là nhà xuất khẩu hàng đầu của thế giới.”.

Cuối cùng, nếu quan sát từ xa 30 ngàn bộ, chính sách thao túng tiền tệ của Trung Quốc không chỉ làm suy yếu nền kinh tế Hoa Kỳ. Nó đe dọa xé nát hệ thống kinh tế toàn cầu và khung điều hành tự do mậu dịch. Vấn đề là ở chỗ: bất cứ khi nào đồng đô la giảm so với các loại tiền khác như euro, real, won hay yen - một chuyện xảy ra khá thường xuyên ngày nay – thì đồng yuan cũng rớt giá theo. Sự rớt giá của đồng yuan so với các đồng tiền khác lại cung cấp cho chính sách bảo hộ của Trung Quốc một lợi thế lớn hơn đối với những đối thủ cạnh tranh khắp thế giới, từ Âu Châu và Brazil đến Nhật và Nam Hàn. Hệ quả bao gồm cả mức cầu trong xuất khẩu bị suy yếu khiến cho Âu Châu rơi vào sự đình đọng kinh tế và khiến nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản bị trì trệ cả thập niên. Trong khi đó, lạm pháp gia tăng vùn vụt ở những quốc gia như Úc và Brzil do những dòng tiền nóng đầu cơ và giá nhiên liệu gia tăng mà nguyên nhân trực tiếp có thể xác định là do hối xuất thấp của đồng yuan.

Qua tất cả những điều này – và bất chấp những lời kêu gọi từ các định chế như Qũy Tiền Tệ Quốc Tế và Ngân Hàng Thế Giới yêu cầu Trung Quốc tăng giá tiền tệ của họ - Trung Quốc vẫn giữ thái độ cứng rắn nhất chống lại việc cải tổ. Đường lối cứng rắn này bắt đầu ngay trên thượng tầng của giới lãnh đạo Trung Quốc; như một câu ngạn ngữ nói: “Cá ươn từ trên đầu xuống”.

Hãy xem một ví dụ về một câu trả lời quái đản của Thủ tướng Ôn Gia Bảo đối với áp lực tái định giá từ các hội viên khác trong Tổ chức G20. Họ Ôn nói: “Trước tiên, tôi không nghĩ rằng đồng yuan được định giá thấp.” Trong thực tế, với những loại trả lời vô lý của giới lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc trước áp lực quốc tế, quả thực khó nói việc phủ nhận thao túng tiền tệ của Trung Quốc có giống với vở bi kịch Shakespeare hay vở hài kịch của Monlière hay không? Nói cho cùng, trong tất cả các quốc gia được hưởng lợi từ sự tăng gia đồng yuan, Trung Quốc sẽ là nước hưởng lợi nhiều nhất.

Để khởi đầu cải cách, một đồng yuan mạnh hơn sẽ nhanh chóng giảm lạm phát ở Trung Quốc do giảm giá dầu, nguyên liệu, và bao nhiêu nguồn vào khác mà Trung Quốc cần để chạy các nhà máy. Và như một phần thưởng chống lạm phát mạnh mẽ, một đồng yuan mạnh cũng nhanh chóng chận đứng dòng tiền nóng đầu cơ đang thổi phồng cả thị trường chứng khoán và bong bóng nhà đất ở Trung Quốc.

Quan trọng hơn hết, đồng yuan mạnh sẽ cải thiện đáng kể sức mua của người tiêu dùng nghèo khó ở Trung Quốc. Bằng cách này, cải cách tiền tệ của Trung Quốc sẽ làm cho Trung Quốc ít lệ thuộc vào xuất khẩu ra thị trường thế giới - một điểm yếu được mô tả như gót chân Achille của mô hình tăng trưởng Trung Quốc.

Không may, các lãnh đạo Trung Quốc từ chối chấp nhận lý lẽ thuyết phục của thông điệp này. Thay vào đó, những nhà ý thức hệ bảo thủ này đã bảo vệ quan điểm không khoan nhượng bằng cách tuyên bố rằng tăng giá đồng yuan sẽ tiêu diệt nền kinh tế Trung Quốc vì đột ngột cắt giảm xuất khẩu. Nhưng điều này cũng là một cách nữa để nói rằng phương thừc duy nhất giữ Trung Quốc tiếp tục phát triển là làm nghèo đi phần còn lại của thế giới, và đặc biệt, làm suy yếu kinh tế và hạ tầng sản xuất của Hoa Kỳ là một trong những mục tiêu quân sự và chiến lược lâu dài của Trung Quốc.

Chương 6: Death by American Corporate Turncoat: When Greenbacks Trump the Red, White, and Blue.
Chết Vì Công Ty Phản Bội: Khi Đồng Tiền Lấn Lướt Màu Cờ.

Theo tờ Lodon Daily Mail loan tải: “Công ty General Electric (Hoa Kỳ) dự định bỏ ra hơn 2 tỷ Mỹ Kim vào Trung Quốc trong năm 2012. Tập đoàn GE đã đưa nhiều hoạt động sản xuất từ Hoa Kỳ sang Trung Quốc, tạo thêm hơn 1,000 việc làm mới… Vừa qua, GE đã đóng cửa một nhà máy chế tạo bóng đèn ở Virginia và sẽ đưa 200 việc làm này sang Trung Quốc.”

Theo tác giả nhận định rằng: Không có vấn đề danh dự đối với bọn cướp – và không có lòng yêu nước trong hàng ngũ những công ty Mỹ. Đó là thông điệp rõ ràng mà những công ty như GE, Caterpillar, và Evergreen Solar đang gửi đến nhân dân Hoa Kỳ trong những ngày gần đây, khi họ đóng cửa những nhà máy ở Hoa Kỳ để mở những công xưởng mới, tráng lệ, hiện đại trên xứ Con Rồng. Khi xuất nguồn sang Trung Quốc, các tập đoàn chuột bọ phản bội này không những tiếp tay xô đẩy quốc gia của mình xuống vực thẳm, mà còn đang ký những bản án tử hình cho chính tương lai của công ty mình. Trước đây không có tình trạng này.

Ngay vào đầu thế kỷ này, khi Trung Quốc lần đầu tiên gia nhập WTO và bắt đầu áp dụng chính sách bảo hộ để tấn công hạ tầng sản xuất của Hoa Kỳ, những giới lãnh đạo các xí nghiệp Hoa Kỳ đã sát cánh với công nhân để phản đối kịch liệt những thủ đoạn mậu dịch bất chính của Trung Quốc. Những cảnh cáo nghiêm khắc của Liên minh Công – Thương này đã gặp phải những kẻ điếc mang bệnh giáo điều cố chấp trong chính quyền Bush (con); họ không thể phân biệt những điểm trọng yếu giữa tự do mậu dịch mang phúc lợi cho tất cả với mậu dịch bất chính chỉ mang phần lớn lợi ích cho Trung Quốc.

Bây giờ, sau một thập niên, Liên minh Công – Thương của Hoa Kỳ đã chết như một số nhà tranh đấu dân chủ ở Thiên An Môn. Trong bài toán chính trị mới, mỗi khi có thêm một việc làm và một nhà máy bị xuất nguồn sang Trung Quốc, cái gọi là những tổ chức “Hoa Kỳ” như là Hội Nghị Bàn Tròn Doanh Nhân, Hiệp Hội Quốc Gia Chế Tạo và Phòng Thương Mại Hoa Kỳ biến thái từ những nhà phê bình gắt gao sang những kẻ bênh vực ngoan ngoãn cho chính sách lái buôn và bảo hộ của Trung Quốc vốn đang lũng đoạn nền kinh tế và công nhân Hoa Kỳ.

Làn Sóng Xuất Nguồn Đầu Tiên: Phát Triển Kỹ Nghệ.

Làn sóng xuất nguồn đầu tiên là một động thái chậm bắt đầu ít lâu sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc mở cửa “Thiên đường lao động” cho Phương Tây vào năm 1978. Sự mở cửa này thực hiện cái gọi là “cải tổ thị trường” nhằm bóc lột giới lao động Trung Quốc về bảo hiểm y tế và những trợ cấp hưu bổng của họ cùng với những quyền hưởng lương thích đáng và điều kiện lao động an toàn – trong khi, mỉa mai thay, Trung Quốc không thực sự giải phóng kinh tế thoát ra khỏi sự khống chế của những xí nghiệp quốc doanh và những nhà hoạch định của Trung ương đảng. Không phải ngẫu nhiên mà trong vài thập niên tiếp theo, những công ty như Mattel, Reebok, và Schwinn bắt đầu sản xuất mỗi ngày một nhiều hơn những sản phẩm thực dụng, đòi hỏi lao động nhiều – như đồ chơi, giày dép, xe đạp - với nhân công rẻ Trung Quốc.

Trong đợt xuất nguồn đầu tiên này, mô hình nô lệ hợp pháp xuất hiện nhiều nơi tại Trung Quốc đã được hoàn chỉnh. Tại các khu chế xuất - công nghiệp, đàn ông và đàn bà - kể cả trẻ em – vừa mới ở thôn quê lên ký ngay những hợp đồng bóc lột mà đa số họ không hiểu gì cả do thiếu học. Họ làm việc cật lực trong những công xưởng nóng bức, dơ bẩn và đông đúc, trung bình 12 đến 16 giờ mỗi ngày. Họ ăn ngủ trong những khu chật chội giống như những nhà nội trú, thường có chắn song nơi cửa sổ hay hàng rào chung quanh khuôn viên công ty. Nếu cố chạy trốn, họ sẽ bị đánh đập. Nếu cố tổ chức đội ngũ để bênh vực quyền công nhân ở nơi làm việc, trước tiên họ sẽ bị đánh đập và rồi bị đuổi việc.

Chính những người nô lệ của thời đại tân tiến ngày nay, với 40 cent một giờ, vẫn còn làm những đồ chơi để vui lòng các con trẻ của chúng ta, khâu những đôi giày cho chúng ta chạy thể thao và thêu những chiếc áo cho chúng ta mặc. Như một minh chứng hùng hồn về sợi xích, tận cùng sẽ trói chặt những công nhân này vào một “Thế giới khủng khiếp với những đặc thù Trung Quốc”, nhiều người trong số họ tương đối hạnh phúc hơn trong cảnh lầm than mới, bởi vì, cho dù những khu chế xuất công nghiệp của Con Rồng có tồi tệ đến đâu đi chăng nữa, đời sống nông dân Trung Quốc vẫn còn tồi tệ hơn nhiều.

Làn Sóng Thứ Hai: Nếu Không Thắng Được Thì Hãy Theo Họ.

Làn sóng xuất nguồn thứ hai của Hoa Kỳ bắt đầu ít lâu sau khi Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2011 và bắt đầu dốc toàn lực tấn công hạ tầng sản xuất Hoa Kỳ bằng cách xử dụng những “vũ khí tiêu diệt việc làm” như trợ cấp xuất khẩu phi pháp và thao túng tiền tệ. Dưới sự công hãm quyết liệt từ những công xưởng Trung Quốc, càng lúc càng nhiều những lãnh đạo các tập đoàn Hoa Kỳ đi đến nhận định: Nếu khai dụng mạng lưới tinh xảo qua trợ cấp xuất khẩu phi pháp của Trung Quốc, họ có thể sản xuất hàng rẻ hơn tại Trung Quốc, và nếu họ không làm thế thì những kẻ cạnh tranh của họ cũng sẽ làm. Nhận thức này gợi cho công ty Mỹ một châm ngôn: Nếu bạn không thắng được họ thì theo họ.” Chẳng bao lâu sau, làn sóng xuất nguồn thứ hai đã trở thành cơn sóng thần.

Điều quan trọng cần nhấn mạnh là trong đợt sóng thứ hai này, mục tiêu hàng đầu của những lãnh đạo tập đoàn Hoa Kỳ không phải là bán cho 1.3 tỷ người tiêu dùng đói khát trong thị trường Trung Quốc. Đúng hơn, họ sản xuất để xuất khẩu sang phần còn lại của thế giới - kể cả trở lại Hoa Kỳ! Để rõ ràng hơn, lợi thế mà lãnh đạo các tập đoàn Hoa Kỳ tin là sẽ có được do xuất nguồn trong đợt thứ hai không chỉ nhờ vào nhân công rẻ - vì yếu tố này cũng có ở những nơi khác như Bagladesh, Cambodia, và Việt Nam; mà đúng hơn, cái mồi thực sự chính là những thủ đoạn mậu dịch bất chính của Trung Quốc – và chính quyền Bush (con) đã cung ứng một phần nhỏ sự hỗ trợ quý giá cho Trung Quốc khi không chống lại những thủ đoạn mậu dịch bất chính này - thế thì ít ra là đối với cổ đông và lãnh đạo các công ty này, tốt hơn nên chuyển sản xuất sang Trung Quốc.

Làn Sóng Thứ Ba: Đại Ảo Tưởng Về 1,3 Tỷ Khách Tiêu Dùng.

Đợt thứ ba và là làn sóng xuất nguồn nguy hiểm nhất hiện đang tiến hành. Nó được thúc đẩy một phần bởi giá công nhân rẻ như trong đợt sóng thứ nhất và một phần do những lợi thế sản xuất của con buôn tại Trung Quốc (từ những thủ đoạn mậu dịch bất chính để đạt thặng dư mậu dịch) như đợt sóng thứ hai. Nhưng động cơ quan trọng đối với làn sóng thứ ba này là cái đại ảo tưởng trong số các lãnh đạo công ty Hoa Kỳ rằng thời cơ thị trường lớn kế tiếp của họ nằm trong chỗ bán hàng cho 1,3 tỷ người tiêu dùng đang sống trong quốc gia đông dân nhất thế giới. Làn sóng xuất nguồn này cực kỳ nguy hiểm bởi vì nó bị điều hướng theo cái ảo tưởng rằng hầu hết người tiêu dùng Trung Quốc có đủ sức mua để thúc đẩy thị trường – trong khi trên thực tế, đa số nghèo mạt rệp. Làn sóng xuất nguồn nguy hiểm này cũng đòi hỏi bất kỳ công ty Hoa Kỳ nào muốn bán vào thị trường Trung Quốc phải chấp nhận ba điều kiện bảo hộ như được nêu trong chính sách của Trung Quốc được gọi là “Sáng tạo bản địa” (Indigenous Innovation).

Điều kiện bảo hộ thứ nhất đòi hỏi thiểu số sở hữu (minority ownership), tức là những công ty Hoa Kỳ phải liên doanh với một đối tác Trung Quốc và cổ phần không được chiếm quá 49% vốn xí nghiệp. Rõ ràng, điều kiện này có nghĩa là công ty Hoa Kỳ mất quyền kiểm soát xí nghiệp. Tinh tế hơn, điều kiện này dành cho đối tác đa số Trung Quốc - hầu hết là những công ty quốc doanh - quyền truy cập bất kỳ và tất cả những thông tin liên quan đến công ty, kể cả những bí mật thương mại.

Điều kiện bảo hộ thứ hai bao gồm một trong những vi phạm trắng trợn quy luật về tự do mậu dịch: cưỡng bách các công ty Hoa Kỳ phải chuyển giao công nghiệp - tức tài sản trí tuệ của họ cho các đối tác Trung Quốc như một điều kiện gia nhập thị trường. Hệ quả thực tế của tình trạng này là đã giúp tán phát những công nghệ khác nhau, không chỉ cho đối tác Trung Quốc trực tiếp tham gia, mà còn cho chính quyền Trung Quốc và các đối thủ Trung Quốc có tiềm năng cạnh tranh khác. Khi chấp nhận điều kiện này, các công ty Phương Tây đã vô tình tiếp tay tạo ra những đối thủ cạnh tranh Trung Quốc chỉ qua đêm.

Điều kiện thứ ba được tiến hành trong bàn tay lái buôn, ngụy trang bảo hộ gắn liền với điều kiện thứ hai ép buộc về chuyển giao công nghệ. Điều này tương tự như việc bắt buộc Phương Tây xuất khẩu những cơ sở nghiên cứu và phát triển cho Trung Quốc - một vi phạm trắng trợn những luật lệ của WTO. Đây là thủ đoạn bất chính nhất trong số tất cả những thủ đoạn vì không khác gì bán đi hạt ngô giống của Hoa Kỳ. Dưới mắt của bất kỳ kinh tế gia nào, chỉ nhờ vào nghiên cứu và phát triển mới có phát minh kỹ thuật cần thiết để tạo ra việc làm mới. Nếu nghiên cứu và phát triền được thực hiện ở Trung Quốc chứ không phải trên đất Mỹ thì đoán xem nước nào sẽ chiếm ưu thế trong việc tạo ra công ăn việc làm mới?

Tại điểm này, người ta thấy rõ ràng là tại sao bất kỳ công ty nào của Hoa Kỳ cũng đều từng bước rơi vào vòng tự hủy diệt khi chấp nhận ba điều kiện bảo hộ của Trung Quốc về sáng tạo bản địa (Indigenous Innovation). Khi một công ty Hoa Kỳ chuyển giao quyền tự trị của mình, chuyển giao những kỹ thuật và khả năng phát triển những kỹ thuật tương lai của mình, vấn đề chỉ còn là thời gian trước khi những công ty Trung Quốc “tiêu hóa” (digest) được những kỹ thuật này và sử dụng chúng để cạnh tranh dễ dàng với những công ty Hoa Kỳ - không chỉ trên đất Trung Quốc, mà còn trên thị trường thế giới.

Những Câu Chuyện Thật:

Dựa trên một số những điều kiện mà Trung Quốc đưa ra để “bắt chẹt” các công ty Hoa Kỳ đầu tư trên đất Trung Quốc, hai tác giả đã truy tìm một số những câu chuyện “dở khóc, dở cười” của 4 công ty Hoa Kỳ đang làm ăn trên đầt Tàu: Westinghouse (tập đoàn ngây thơ nhất); General Electronic (tập đoàn bị bệnh tâm thần); Catepillar (tập đoàn tiêu biểu nhất về nạn nhân ăn phải bả lái buôn của Trung Quốc) và Evergreen Solar (tập đoàn đã từng là Hy Vọng Xanh Vĩ Đại của chính quyền Obama, và bây giờ đang là một hỡi ôi về sự thất bại của các chính trị gia Hoa Kỳ trong việc bảo vệ các thương vụ của chúng ta trước sự xâm lấn của Trung Quốc).

Câu Chuyện Của Tập Đoàn Westinghouse

Theo tờ Finance Time cho biết: “Westinghouse Electric đã chuyển giao hơn 75,000 tài liệu cho những khách hàng Trung Quốc của họ như phần khởi đầu của hợp đồng chuyển giao công nghệ mà Westinghouse hy vọng sẽ giữ vị trí của họ trong thị trường hạt nhân đang phát triển nhanh nhất... Jack Allen, chủ tịch của Westinghouse ở Á Châu cho biết rằng công ty của ông đã “không có bảo đảm nào” về vai trò của nó ở Trung Quốc sau khi bốn lò phản ứng hạt nhân Trung Quốc AP 1000 đã được hoàn tất.”

Tương tự như Frodo không thể nào cưỡng lại nổi món mồi cám dỗ của chiếc nhẫn giết người, Westingshouse rõ ràng là không thể nào cưỡng lại sức quyến rũ của thị trường xây nhà máy phát điện hạt nhân của Trung Quốc. Này nhé, chúng ta hãy xem: thị trường nguyên tử Trung Quốc là thị trường lớn nhất và phát triển nhanh nhất thế giới, với 23 lò phản ứng đang xây dựng cùng những kế hoạch thiết lập hơn 100 lò nữa. Nhưng trong khi vồ lấy một phần khá lớn thị trường đang lớn mạnh đó, chắc chắn sẽ là một phần thưởng to lớn cho Westinghouse, thì con đường tồi tệ để đánh mất phần thưởng đó là làm những gì mà Chủ tịch hội đồng điều hành (CEO) Jack Allen đã làm: chuyển giao cho Trung Quốc mọi cái họ cần để xây dựng những lò phản ứng tương lai mà không cần sự giúp đỡ của Westinghouse.

Sự việc thật khôi hài! Trên trang nhà, Westinghouse Nuclear tự hào rằng “gần 50% những nhà máy điện nguyên tử đang hoạt động khắp thế giới… đã dựa trên công nghệ của Westinghouse.” Niềm tự hào này quả là ngây thơ, vì khi Westinghouse chuyển 75 ngàn tài liệu kỹ thuật cho Trung Quốc thì có nghĩa là công nghệ của Westinghouse đã bị đánh cắp; và không chỉ 50% mà còn hơn thế nữa những lò phản ứng nguyên tử Trung Quốc dựa theo công nghệ của Westinghouse.

Sự ngây thơ của Westinghouse càng đáng ngạc nhiên hơn nữa khi người ta biết rằng, tuy nó là công ty của Hoa Kỳ nhưng lại do Tập đoàn Toshiba của Nhật Bản kiểm soát. Nhiều công ty Nhật đã bị đốt cháy vì những điều kiện chuyển giao công nghệ bắt buộc của Trung Quốc, và khả năng đáng kinh ngạc của các nhà sản xuất Trung Quốc trong việc nhanh chóng tiêu hóa những công nghệ nước ngoài và xử dụng chúng để trở thành những tay cạnh tranh quyết liệt.

Câu Chuyện Của Tập Đoàn Capterpillar:

Capterpillar đã đóng cửa các nhà máy ở các tiểu bang Illinois, Indiana và Georgia, cho nghỉ việc hơn 20 ngàn công nhân để chuyển các hoạt động kinh doanh sản xuất sang Trung Quốc. Trong ba thập niên vừa qua, Capterpillar đã trưởng thành từ một văn phòng bán lẻ duy nhất ở Bắc Kinh sang hệ thống toàn quốc bao gồm 11 cơ sở sản xuất, ba trung tâm nghiên cứu và phát triển, 9 văn phòng và 2 trung tâm bán đồ tiếp liệu và phụ tùng. Đó là những gì được báo chí loan tải trên bề nổi.

Trong thực tế thì Capterpillar đang phải trả cái giá rất lớn cho sự đầu tư của họ tại Trung Quốc. Để xâm nhập thị trường này, Capterpillar đã quyết định sản xuất những máy đào đất loại nhỏ để bán vào thị trường Trung Quốc thay vì sản xuất từ Mỹ. Tuy nhiên, Capterpillar đã chịu một sắc thuế rất khắc nghiệt tại Trung Quốc dưới hình thức trị giá một yuan thấp khoảng 40% trị giá thật. Capterpillar hiện đang chịu nhiều sắc thuế mà nhà cầm quyến Trung Quốc đã ấn định trên mặt hàng sản xuất của họ nhưng không giải thích lý do hoặc có giải thích đi chăng nữa thì cũng rất là mơ hồ và tùy tiện.

Việc Capterpillar ngưng sản xuất tại Mỹ là một thiệt thòi to lớn cho các công nhân Hoa Kỳ, khi Tập đoàn Capterpillar được coi là thần tượng và mang lại nhiều lợi tức kỹ nghệ cho vùng Trung Tây Hoa Kỳ cách nay vài thập niên. Điều khôi hài là sau 3 thập niên xuất nguồn đầu tư tại Trung Quốc, Capterpillar hiện đang phải ngửa tay xin trợ cấp từ chính quyền Obama trong chương trình kích cầu tài chánh nền kinh tế.

Câu Chuyện Tập Đoàn Evergreen Solar:

Evergeen chuyên sản xuất một số những tấm tiếp nhận năng lượng mặt trời có hiệu năng cao nhất trên thế giới. Nếu chúng ta tin vào Tổng thống Obama, đó chính là các công ty như Evergreen Solar được cho là một trong những nguồn tốt nhất để cung cấp công ăn việc làm mới cho Hoa Kỳ. Được mệnh danh là “những kỹ nghệ xanh (green Industries)” của Hoa Kỳ, đáng lý ra Evergreen Solar đã có thể tạo công ăn việc làm nhanh nhất trong thời kỳ mà cung ứng “xăng dầu” sút giảm và nạn hâm nóng địa cầu gia tăng? Nhưng theo giả thì không hẳn là như vậy.

Theo ông Rick Feldt, Tổng giám đồc điều hành (CEO) của Evergreen nói rằng công ty của ông quả có làm mọi thứ có thể làm được để thuyết phục chính quyền Obama giúp Evergreen duy trì những cơ sở sản xuất của họ ở Massaschusetts. Hoạt động cùa Tổng giám đốc Feldt bao gồm ngay cả việc đi đến Thủ đô Hoa Thịnh Đốn để cầu cứu những viên chức trọng yếu trong chính quyền như Bộ trưởng Năng Lượng Steven Chu và Bộ trưởng Thương Mại Gary Loke nhằm chống trả những trợ cấp bất chính khổng lồ mà chính quyền Trung Quốc đã đổ vào công nghệ năng lượng mặt trời của họ. Nhưng những yêu cầu của Evergreen đã rơi vào những lỗ tai điếc.

Vì thế, khi chính quyền Trung Quốc đề nghị cho Evergreen vay với lãi xuất thấp để tài trợ 65% chi phí xây dựng những cơ xưởng mới của họ tại Trung Quốc thay vì tại Massaschusetts, Tổng giám đốc điều hành của Evergreen tin rằng mình không còn chọn lựa nào khác hơn là chấp nhận món tiền của Trung Quốc và đem cơ sở sản xuất của mình “xuất dương”. Theo tác giả nhận định thì việc Tập đoàn Evergreen phải dời công ty sản xuất từ tiểu bang Massachusetts sang Trung Quốc không những làm mất công ăn việc làm của hàng ngàn công nhân tại đây mà còn làm mất những nguồn lợi kinh tế của tiểu bang Massachusetts khi những người đóng thuế tại tiểu bang Massachustts đã bỏ ra 54 triệu Mỹ Kim để hỗ trợ cho việc xây dựng nhà máy tối tân của Evergreen vào năm 2007, giờ đây không còn sử dụng nữa. Và điều sỉ nhục sau cùng của việc này là những người đóng thuế Hoa Kỳ phải trả $340 triệu Mỹ Kim phí tổn cho việc đóng cửa nhà máy.

Câu Chuyện Của Tập Đoàn General Electric:

Theo tác giả thì General Electric là công ty Hoa Kỳ đầu tiên đã “phản bội” khi tiên phong trong việc làm ăn với Trung Quốc. Bề ngoài, sự làm ăn giữa GE và đối tác Trung Quốc không phải là canh bạc xấu. General Electric hiện có khoảng 15 ngàn công nhân (đa số là người Trung Quốc) tại hơn 50 địa điểm ở Trung Quốc. Tuy mỗi năm GE mang về một số lợi tức; nhưng con số này không bỏ so với những tiềm năng mà đáng lý ra GE phải được hưởng từ sự xuất nguồn đầu tư tại Trung Quốc.

Tuy nhiên, theo tác giả nhận định thì vấn đề quan trọng của General Electric hiện nay chính là hành vi loạn trí (schizophrenic behavior) của Tổng Giám đốc Điều hành Jeffrey Immelt. Một mặt thì Jeffrey Immelt chỉ trích nặng nề chính sách bảo hộ của Trung Quốc; nhưng mặt khác, ông ta đã làm cho mọi người kinh ngạc khi chuyển giao những công nghệ mới cho Trung Quốc để đổi lấy “đặc ân” được làm ăn với Trung Quốc. Một trong những chuyển giao nguy hại nhất mà Jeffrey Immelt đã làm là chuyển giao toàn bộ doanh nghiệp hàng không toàn cầu của GE, để có thể dự phần vào công trình phát triển một máy bay phản lực chở khách của Trung Quốc. GE còn chuyển giao những công nghệ đa dạng quan trọng trong kỹ nghệ về đầu máy xe lửa, năng lượng gió và các trang thiết bị chống ô nhiễm…

Theo nhận định của ký giả John Grapper của tờ Finance Times thì những hành động của Jeffrey Immelt nói trên là quá thiển cận. Một khi mà công ty Trung Quốc tiêu hóa được những công nghệ hiện có của GE và những công nghệ mới hơn của GE nằm trên đất Trung Quốc thì có ngày General Electric sẽ bị loại ra bên lề và đương nhiên GE sẽ đương đầu với cuộc cạnh tranh thậm chí còn ác liệt hơn thị trường thế giới.

Theo nhận định của tác giả thì không chỉ có các tập đoàn GE, Captelpillar, Evregreen mới quay lưng và phản bội Hoa Kỳ. Hiện có rất nhiều công ty và những kỹ nghệ khác nhau - vốn hưởng lợi ngắn hạn nhờ mối liên hệ ký sinh mà Trung Quốc có được với Hoa Kỳ, đã thay đổi lập trường trong cuộc tranh luận về Trung Quốc. Thực vậy, mỗi khi vấn đề cải tổ mậu dịch với Trung Quốc được nêu ra thì những công ty này liền ra mặt… chống lại.

Ngay những nhóm nông nhiệp có nhiều thế lực như Hiệp Hội Đậu Nành Hoa Kỳ (American Soybeam Association), Hiệp Hội Chế Biến Bắp (Corn Refiners Association), Hiệp Hội Thịt (American Meat Instituten) và Hội Đồng Xuất Khẩu Gà & Trứng Hoa Kỳ (USA Poultry & Egg Export Council), thường xuyên phản đối việc cải tổ mậu dịch mang tính cách “xây dựng - thẳng thẳng” (constructive) với Trung Quốc vì họ sợ những thuế xuất trả đũa. Trong khi sự sợ hãi như vậy có thể là chính đáng, thì nó lại không biện minh được những hành động “vận động hậu trường” (lobby) vốn rõ ràng là phương hại đến những quyền lợi rộng lớn hơn của Hoa Kỳ và những công nhân Hoa Kỳ khi nước này cố gắng đối phó với một trong những vấn nạn kinh tế tệ hại nhất chưa từng phải đối mặt.

Thành phần quan yếu thứ hai trong liên minh thân Trung Quốc nhằm “chia để trị” (devide and conquer) gồm những nhóm bán lẻ như American Apparel & Footwear Association, The National Retail Federation và The Sporting Goods Manufacturers Association, sợ giá cả tăng và phá sản nếu như Trung Quốc chấp nhận việc định giá thực đồng Yuan theo thị trường và bãi bỏ những trợ cấp xuất khẩu. Điều mà những nhóm này không hiểu – và điều mà những công dân Hoa Kỳ vẫn chưa nắm bắt được là: Trận lụt hàng hóa giá rẻ giả tạo của Trung Quốc vốn đang làm cho Hoa Kỳ phá sản chỉ là món tiền cọc để nuôi nạn thất nghiệp hiện tại và tương lai của quốc gia này. Hơn nữa, nạn thất nghiệp ở Hoa Kỳ gia tăng có nghĩa là mãi lực nơi người tiêu dùng giảm xuống và giảm luôn cả những doanh nghiệp bán lẻ của Hoa Kỳ về lâu dài.

(Còn tiếp)

Lý Thái Hùng
Ngày 23/9/2011

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét