29 tháng 10, 2011

Đọc tập sách “Chết Bởi Trung Quốc” (Death by China), phần 8

Chương 15: Death by China: Apologist Fareed Zakaria Floats Away.
Chết Bởi Trung Quốc: Tên Biện Hộ Fareed Zakaria Đang Vật Vờ Trôi Đi

Mỗi ngày trên toàn quốc Hoa Kỳ, có một số đông người cố bênh vực và ca tụng Trung Quốc, không hề nhận thực về những điều tồi tệ mà Trung Quốc đang nhắm vào Hoa Kỳ như đánh cắp tài sản trí tuệ, đánh cắp hàng triệu việc làm của công nhân Hoa Kỳ, ráo riết tân trang vũ khí để đánh chìm hải quân Hoa Kỳ.... Tác giả đã nêu đích danh một số nhà báo, giáo sư đại học và bình luận gia nổi tiếng như Fareed Zakaria, James Fallows, Tom Friedman, Fred Hiatt, Nicholas Kristof, David Leonhardt và Joseph Stiglitz, là những người đứng về phía Trung Quốc để chống lại những người đang thúc đẩy những cải cách mà đáng lý đã phải làm từ lâu.



Đã có một liên minh gồm những đoàn thể, công ty và cá nhân liên kết một cách không chính thức để ủng hộ Trung Quốc. Ngày nào mà dư luận Hoa kỳ chưa vạch trần những ý đồ đen tối của nhóm người thuộc "liên minh ủng hộ Trung Quốc” sẽ khó mà tạo ra những cải cách trong mối quan hệ Mỹ - Trung. Trong chương này, tác giả sẽ đề cập đến những tổ chức nằm trong “liên minh ủng hộ Trung Quốc” gồm có:

1/ Trường phái phóng khoáng: Dân chủ hóa và thuần phục Con Rồng (The “Democratize and Tame the Dragon” Liberals)

2/ Trường phái bảo thủ: Nguyền rủa bọn phá hoại thương mại: “Tự Do Mậu Dịch Bằng Mọi Giá ” (The Damn the Mercantilist Torpedoes, “Free Trade Ahead at Any Costs” Conservatives).

3/ Những chủ ngân hàng lưu vong phố Wall chuyên thao túng dư luận (The Wall Street Banker Expat Spin Doctors)

4/ Những kẻ nhân nhượng trong chóp bu quyền lực tại Washington (The Washington Power Elite Appeasers)


5/ Những bậc thầy Toàn cầu hóa: “Thế Giới Phẳng” (The “World Is Flat” Globalization Gurus)

6/ Những nhóm tư vấn dẫn mối cho Gấu Trúc (The Panda-Pandering Think Tanks)

* * *

Trường Phái Phóng Khoáng: Dân Chủ Hóa và Thuần Phục Con Rồng
The “Democratize and Tame the Dragon” Liberals

Nội dung chính trong lập luận ủng hộ Trung Quốc của nhóm này là: Chúng ta phải tiếp cận con Rồng để chế ngự nó.

Theo quan điểm này, tất cả những gì mà một Trung Quốc độc tài toàn trị thật sự cần để trở thành một Trung Quốc dân chủ là thời gian – và một liều lượng khổng lồ của thịnh vượng kinh tế. Nhóm này còn lập luận rằng: khi trở nên sung túc hơn, Trung Quốc sẽ trở thành như Hoa Kỳ, có nghĩa là, một nền dân chủ văn minh, biết tôn trọng tự do ngôn luận, nhân quyền, sở hữu trí tuệ, những nguyên tắc tự do mậu dịch, và giá trị thiêng liêng của các thùng phiếu.

Chính những lập luận sai lầm này đang là nền tảng cho nguồn gốc của những vấn đề kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Chính quyền Bill Clinton đã không ngừng sử dụng luận cứ đó trong những năm cuối thập niên 1990 để hỗ trợ cho chính sách “can dự” (engagement) với Trung Quốc và gây áp lực với các nhà lập pháp để đưa Trung Quốc vào Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới vào năm 2000.

Tất nhiên, lịch sử trên vấn đề này đã chứng tỏ đây là một tình nhân khắc nghiệt cho Tổng thống Bill Clinton. Trong thập niên qua, Hoa Kỳ đã đem về kết quả hoàn toàn trái ngược so với kết quả đã được hứa hẹn bởi chính sách “can dự” của ông đối với Trung Quốc.

Thật vậy, nền kinh tế Trung Quốc mang lại cho tầng lớp trung lưu đang trổi lên càng nhiều của cải bao nhiêu thì lại càng có nhiều công dân Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận ý tưởng rằng chủ nghĩa toàn trị vừa cần thiết vừa đáng quý để giữ cho phép lạ tăng trưởng. Giáo sư Minh Nhạc (Ming Xia) đã mô tả Trường Phái Phóng khoáng Mỹ đã hoàn toàn hiểu sai suy nghĩ của nhóm tân bảo thủ Á Châu:

Ở Phương Tây, những người theo khuynh hướng tự do dân chủ thường hy vọng rằng nền kinh tế thị trường mới nổi sẽ tạo ra một tầng lớp trung lưu khá lớn; sau đó những người này sẽ trở thành xương sống của xã hội dân sự và động lực cho dân chủ hóa. Nhưng, nhiều chuyên gia Á Châu đã phát hiện ra rằng điều đó không đúng ở Đông Á: dưới chế độ tư bản theo định hướng của nhà nước, tầng lớp trung lưu thường phụ thuộc vào nhà nước cho việc làm (công chức và chuyên viên nhà nước) và các tài nguyên (giới kinh doanh); do đó họ không hoạt động chống lại nhà nước. Đây là trường hợp ở Trung Quốc. Không đáng ngạc nhiên, tầng lớp trung lưu đã đứng về phía chủ nghĩa tân bảo thủ (neo-conservatism) ở Trung Quốc từ thập niên 1990.

Nói thẳng ra, có nhiều người dân Trung Quốc dường như sẵn sàng từ bỏ các quyền tự do ngôn luận và nhân quyền để đổi lấy quyền lực và tiền bạc hầu mua xe BMW và bánh mì kẹp Big Mac. Đó là lý do tại sao Giáo sư Đại học Harvard Samuel Huntington cảnh cáo những người theo Trường phái phóng khoáng giữa thập niên 1990 không nên tin hoàn toàn vào chính sách “can dự”. Lời cảnh báo của ông Huntington đã được trích dẫn trong tờ Taiwan Review:

Bản chất của nền văn minh Phương Tây là Đại Hiến Chuơng (Magna Carta), chứ không phải là đại McDonald’s. Thực vậy, người Trung Quốc có thể ăn Hamburger McDonnalt hay thậm chí lái xe hơi, nhưng vẫn không quan tâm đưa vấn đề dân chủ vào chính trị của họ, đặc biệt khi họ trở nên giàu có dưới chủ nghĩa tư bản độc tài do nhà nước chỉ huy.

Khi suy nghĩ kỹ vấn đề này, chúng tôi muốn làm thật rõ một điều: Không có cái gì gọi là cố hữu “Trung Quốc” hay cố hữu về chủ nghĩa toàn trị, và không có thứ gì ngăn cản nhân dân Trung Quốc tiến đến xã hội tự do. Thực vậy, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore và Cộng đồng Trung Hoa khắp thế giới đã từng nhiều lần chứng minh điều này.

Thực ra, sự thành công của người Hoa trong những hệ thống khác nhau và dân chủ hơn là kết quả của lòng tự hào, tính cần cù lao động và triệt để tôn trọng giáo dục. Tuy nhiên, thật đáng buồn, bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng sản đã bịp bợm thuyết phục một bộ phận quan trọng của Trung Quốc – và nhiều người trên thế giới - rằng chính sự “lãnh đạo đáng ngưỡng mộ” của đảng Cộng sản đã tạo nên sự giàu có cho Trung Quốc.

Trường Phái Bảo Thủ: Nguyền Rủa Bọn Phá Hoại Thương Mại: Tự Do Mậu Dịch Bằng Mọi Giá.
The Damn the Mercantilist Torpedoes, Free Trade Ahead at Any Costs” Conservatives.

Theo tác giả thì dấu hiệu phân biệt những người theo phái bảo thủ nói trên là một niềm tin mù quáng vào nguyên tắc tự do mậu dịch bất kể loại chính sách con buôn và bảo hộ nào mà những đối tác mậu dịch của Hoa Kỳ chọn lựa. Tuy nhiên, như chúng ta học bài học đau thương nơi Chương 4 về cái chết của hạ tầng sản xuất của Hoa Kỳ, tự do mậu dịch chỉ làm lợi cho cả hai phía nếu cả hai đều tuân thủ theo luật lệ. Ngược lại, và như nhiều trường hợp quan hệ mậu dịch bất cân xứng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, một quốc gia thắng trên sự thua thiệt của nước bên kia về thu nhập, công việc làm, hạ tầng sản xuất và thịnh vượng.

Có lẽ điều khó chịu nhất về những người trong Trường Phái Bảo Thủ là gần như không thể tranh luận với họ. Những nhà tư tưởng tự mãn này có vẻ dung túng bất kỳ vi phạm nào của Trung Quốc về tự do mậu dịch, ngay cả khi họ đòi hỏi Hoa Kỳ phải tiếp tục tuân thủ những quy luật đó. Thật ra, không có chỗ nào trong tư tưởng này cho thấy sự uyển chuyển trí óc để phân biệt, ví dụ, giữa các loại thuế bảo hộ xấu và các hạng ngạch được thiết kế để đóng cửa thị trường đối với người ngoại quốc với các biện pháp chính đáng để tự vệ như các sắc thuế trừng phạt những trợ cấp bất chính của chính quyền Trung Quốc.

Tác giả đã đưa tờ Wall Street Journal là một điển hình cho trường phái bảo thủ. Theo tác giả thì khi nào xuất hiện một tiêu đề về cải tổ mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc thì ban xã luận và nhóm bình luận bảo thủ của tờ Wall Street Journal bắt đầu tấn công với một công thức tuyên truyền theo kiểu “đã thử và đúng” (tried-and-true).

Tờ Wall Street Journal đã viết như sau: “Làm như nền kinh tế thế giới chưa đủ suy yếu, các chính trị gia ở Mỹ và Trung Quốc dường như có ý định theo đuổi một cuộc chiến về tiền tệ theo lối cũ. Trong vấn đề này, Hoa Kỳ đang phạm sai lầm nhiều hơn Trung Quốc, và điều quan trọng là phải hiểu tại sao, để hai quốc gia không đưa thế giới quay về thời kỳ đen tối của chủ nghĩa bảo hộ tiền tệ theo kiểu “lợi mình hại người” (beggar-thy-neighbor).

Với quan điểm và công thức mang tính tuyên truyền nói trên, tờ Wall Street Journal luôn luôn bắt đầu việc quy kết bất kỳ hành động tự vệ nào đối với Trung Quốc là theo “chủ nghĩa bảo hộ”. Sau khi phun ra chữ P (Protectionism) đầy cảm tính, tờ Wall Street Journal tiếp nối bằng một cảnh cáo nghiêm khắc về một cuộc chiến mậu dịch sắp xảy ra nếu Hoa Kỳ cố tự vệ trước sự ăn cướp kiểu dã thú của Trung Quốc.

Đương nhiên, nếu cải cách thực sự là một khả năng, tờ Wall Street Journal sẽ cố làm cho chúng ta sợ bằng cách trích dẫn và đổ trách nhiệm lên thuế suất Smoot – Hawley trong việc gây ra cuộc Đại Khủng Hoảng. Điều này không khác gì một đống phân bò, nhưng đó là sự tuyên truyền hiệu nghiệm khó chối bỏ vốn đã phục vụ tốt cho luận điệu: “Hướng đến tự do thương mại với mọi giá” của tờ Wall Street Journal trong những năm qua.

Điều này không có nghĩa là tờ The Wall Sttreet Journal một mình, trong thành phần ưu tú của giới báo chí tài chánh, có thể đứng ra tấn công những nhà chủ trương cải cách đối với Trung Quốc. Đáng tiếc, hai tay chơi lớn toàn cầu khác - Nhật Báo Finance Times và Tuần Báo Economist – cũng có cùng khuynh hướng muốn làm ngơ những thủ đoạn mậu dịch bất chính của Trung Quốc vì sợ rằng trấn áp những thủ đoạn như thế có thể làm suy yếu chế độ tự do mậu dịch toàn cầu.

Ngoài những tờ báo lớn, có nhiều học giả bảo thủ và thành viên một số viện nghiên cứu nằm trong nhóm bảo thủ ủng hộ Trung Quốc. Ví dụ, Dan Griswold thuộc Cato Institude và Ed Feulner thuộc Heritage Foundation là những người thường xuyên đưa ra những luận điệu ủng hộ lập luận tự do mậu dịch nói trên. Ngoài ra còn có Greg Mankiw của Đại học Harvard, Ronald McKinnon của Đại học Stanford, ủng hộ tự do mậu dịch và chống lại việc Quốc hội bàn thảo những dự luật liên quan đến cải cách tiền tệ đối với Trung Quốc. Tác giả cho rằng nhóm bảo thủ này đã không nhận thức một điều hệ trọng là: Trung Quốc đang làm hại nền tự do mậu dịch nhiều hơn rất nhiều so với hệ quả trừng phạt tự vệ có thể có đối với chính sách lái buôn và bảo hộ của Trung Quốc.

Lãnh Đạo Ngân Hàng Phố Wall - Lũ Lưu Vong Chuyên Thao Túng Dư Luận
The Wall Street Banker Expat Spin Doctors

Trong khi chúng ta không đặt dấu hỏi trên vấn đề chính trực “integrity” và động cơ “motives” của những người theo Trường Phái Phóng Khoáng “dân chủ hóa và chế ngự con Rồng” hay những người theo Trường Phái Bảo Thủ “Chống phá hoại thương mại, hướng đến tự do mậu dịch bằng mọi giá” - thì họ đã nhiệt tình bênh vực lập trường của họ dựa trên một cam kết ý thức hệ – tuy nhiên, thái độ nhân nhượng này không thể áp dụng cho liên minh thứ ba thuộc nhóm “Lãnh đạo Ngân hàng phố Wall” bênh vực cho Trung Quốc. Nhóm “Lãnh đạo Ngân hàng phố Wall” đại diện cho tất cả các ngân hàng lớn khác nhau và các công ty dịch vụ tài chính đã đầu tư rất nhiều ở Trung Quốc và hiện đang thu vào rất nhiều tiền và rất nhanh - thường là với những tổn phí mà Hoa Kỳ phải trả. Đương nhiên, chiến lược tiêu biểu của nhóm này là xử dụng các lập luận được công chúng ưa thích để làm tăng lợi ích tài chính cho bản thân.

Có lẽ những hung thủ lợi hại nhất của nhóm này là những tay tài phiệt lớn như Goldman Sachs và Morgan Staley. Họ đã thiết lập một vài chi nhánh thuộc loại nhất của Hoa Kỳ tại Trung Quốc, thường có một quan hệ khắng khít với những cán bộ Trung Quốc và muốn bảo đảm rằng không có gì có thể làm chao đảo chiếc thuyền chở vàng của họ.

Với mục đích đó, họ đã thuê hai trong số những tay súng đánh thuê có thành tích cao nhất trong cuộc tranh luận về Trung Quốc, đó là Jim O’Neil, Chủ tịch Ban quản trị tài sản của Goldman Sachs và Stephen Roach, Cựu chủ tịch của Morgan Stanley Asia. Cũng như các biên tập viên của The Wall Street Journal, hai người luân phiên nhanh chóng chụp mũ “bảo hộ” hay “bài Trung Quốc” cho bất cứ ai tìm cách cải tổ với Trung Quốc – và cả hai được tán thưởng như những ca sĩ nhạc Rock trên báo chí của nhà nước Trung Quốc. Điểm nổi bật giữa hai tên đánh thuê nặng ký này với đám đông là cách xử dụng thông minh các lập luận kinh tế và xuyên tạc các thống kê.

Ví dụ, hãy xem trường hợp Jim O’Neil. Ngay đêm hôm trước khi có quyết định quan trọng của Bộ Tài Chánh Hoa Kỳ liên quan đến việc Trung Quốc thao túng tiền tệ , tờ Financial Times đã trao cho Jim O’Neil một cột báo để đưa ra một luận điệu lạ lùng là: “đồng nhân dân tệ rất gần với giá thực của nó”. Trong khi đó, tờ Nhân Dân Nhật Báo Trung Quốc ở Bắc Kinh thì viết bài ca ngợi cựu chủ tịch Morgan Stanley của Morgan Staley Asia là đã phê phán về các hành động chống lại Trung Quốc của chính phủ Hoa Kỳ.

Tờ Nhật báo Trung Quốc viết rằng: “Cựu chủ tịch Morgan Stanley Asia là Stephen Roach đã nói một cách mỉa mai rằng chính quyền Hoa Kỳ đã quy kết tiền tệ Trung Quốc là nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp và thâm thủng mậu dịch của Hoa Kỳ, và cho rằng những trừng phạt mậu dịch đối với Trung Quốc sẽ gây ra một hậu quả tai hại cho Hoa Kỳ. Thâm thủng mậu dịch song phương Mỹ - Trung có rất ít liên quan đến đồng nhân dân tệ của Trung Quốc. Nó phản ảnh một sự thật là Hoa Kỳ không có tiết kiệm và những quốc gia không tiết kiệm phải nhập khẩu tiết kiệm thặng dư từ nước ngoài.”

Với những phát biểu của Jim O’Neil và Stephen Roach nói trên, độc giả nhìn thấy lý do vì sao Trung Quốc tránh né việc định giá đồng nhân dân tệ một cách công bằng, chính là vì nó không cung ứng một lực đẩy lớn cho nền kinh tế Trung Quốc. Việc Stephen Roach cho rằng Hoa Kỳ thâm thủng mậu dịch vì không tiết kiệm. Đó là suy nghĩ không nghiêm túc vì Stephen Roach từ chối ghi nhận vai trò quan trọng mà quá trình thao túng tiền tệ của Trung Quốc đã gây ra trong việc “nén” lãi xuất Hoa Kỳ một cách giả tạo, đưa đến hệ quả “nén” tỉ suất tiết kiệm tại Hoa Kỳ.

Những Kẻ Nhân Nhượng Trong Chóp Bu Quyền Lực Tại Hoa Thịnh Đốn
The Washington Power Elite Appeasers

Thập niên vừa qua, trong khi Trung Quốc chế ngự nền kinh tế Hoa Kỳ, dường như nó không là vấn đề cho bất cứ ai ngồi ở Tòa Bạch Ốc, ai điều hành Bộ Tài Chánh, hay ai chiếm đa số tại Capitol Hill. Bất luận đảng chính trị nào nắm quyền lực, sự đồng thuận trong nhóm “những kẻ nhân nhượng trong chóp bu quyền lực tại Hoa Thịnh Đốn” là nên nhân nhượng hơn là đối đầu với Con Rồng.

Với Tổng Thống George W Bush, vấn đề phần lớn là tư tưởng - là một nhà mậu dịch tự do, ông đã không thể hiểu được sự thiệt hại gây ra cho hạ tầng sản xuất của Hoa Kỳ do chính sách lái buôn và bảo hộ của Trung Quốc. Thêm vào sự phân tâm của ông Bush về cuộc chiến ở Iraq, cuộc chiến chống khủng bố, và nỗi ám ảnh của ông đối với “trục ma quỷ”, chúng ta đã bị tổn thương với 8 năm của chính sách “không thấy ma quỷ Trung Quốc” từ một nhân vật quyền lực nhất hành tinh.

Sau 8 năm của ông Bush, người ta hy vọng là khi có sự thay đổi lãnh đạo ở Hoa Thịnh Đốn qua cuộc bầu cử năm 2008, Hoa kỳ sẽ nhanh chóng chuyển sang một lộ trình mới của những cải cách có ý nghĩa với Trung Quốc. Tuy nhiên, với Tổng Thống Barack Obama, rõ ràng là người dân Hoa Kỳ đã đánh đổi một kẻ nhân nhuợng trong chóp bu quyền lực tại Hoa Thịnh Đốn bằng một người khác.

Điều đáng lo nhất trong tất cả những vấn đề này là Tổng Thống Obama dường như hoàn toàn không có khả năng nối kết những gạch nối ngày càng rõ ràng giữa tình trạng suy thoái kinh tế và những vũ khí tiêu diệt việc làm của Trung Quốc. Có thể là vì ông tin rằng ông cần phải tiếp tục vay tiền của Trung Quốc để tài trợ cho những cú kích cầu tài chánh khổng lồ và thiếu hụt ngân sách. Có thể là vì ông đã bị bao vây quanh mình những thành phần nội các và cố vấn thân Tàu như Jason Furman của Tòa Bạch Ốc, Bộ trưởng thương mại Gary Locke, Giám đốc Hội đồng an ninh quốc gia Jeffrey Bader, Lael Brainard của Bộ tài chánh, James Steinberg và Kurt Campbell của Bộ ngoại giao.

Điềm đáng ngại nhất, có lẽ là Tổng Thống Obama thực sự không hiểu những phức tạp của kinh tế vĩ mô toàn cầu và như là một phiên bản hiện đại của Neville Chamberlain, “tuyệt đối tin rằng” sự “trổi dậy” của Trung Quốc sẽ “hòa bình” và “tốt cho Hoa Kỳ”. Dù cách nào đi nữa, chúng ta ở Hoa Kỳ đã không được đáp ứng tốt về những câu hỏi liên quan tới Trung Quốc từ hai chủ nhân gần đây nhất của Toà Bạch Ốc.

Và từ câu chuyện này của hai vị Tổng Thống, không mấy ngạc nhiên khi chúng ta có những câu chuyện tương tự về hai Bộ trưởng tài chánh – Henry Paulson thời Bush con và Timothy Geithner thời Obama. Dù cho có nhiều cơ hội – và những bằng chứng hiển nhiên - cả hai người đều liên tiếp
từ chối việc tiến hành một trong những bước quan trọng nhất và trực tiếp mà đất nước này có thể thực hiện trên con đường tiến đến cải cách mậu dịch với Trung Quốc, cụ thể là dán nhãn Trung Quốc là thao túng tiền tệ.

Dĩ nhiên không ai thật sự hy vọng là Hank Paulson trừng phạt Trung Quốc về tội thao túng tiền tệ. Dầu sao, trước khi trở thành Bộ trưởng tài chánh, Paulson là một trong những tay đầu sỏ quan trọng của nhóm “Lãnh đạo ngân hàng phố Wall”. Thật ra, trên cương vị là Chủ tịch và Tổng giám đốc điều hành (CEO) của Goldman Sachs, Paulson đã thực hiện hơn 70 chuyến đi đến Trung Quốc. Mối liên hệ với Trung Quốc của Paulson đã giúp cho công ty của ông ta kiếm hàng trăm triệu Mỹ Kim; và không thể nào một tay gạo cội của phố Wall lại cắn bàn tay Bắc Kinh vốn đang nuôi sống cho các đồng chí Goldman Sachs của ông ta quá tốt.

Còn chuyện làm thế nào mà Timothy Geithner lại trở mặt một cách nhanh chóng thành kẻ bênh vực Trung Quốc, đây là điều bí ẩn lớn. Và trời hỡi, nhanh tới độ khó lường! Trong một phút chớp nhoáng “thấy đó, mất đó” ở New York, Geither đi từ một nhà cải cách Trung Quốc, hứa hẹn sẽ dán nhãn Trung Quốc thao túng tiền tệ trong suốt cuộc điều trần nhậm chức, sang thành người nhân nhượng Trung Quốc ngay sau khi ông ngồi vào ghế Bộ trưởng.

Những Bậc Thầy Toàn Cầu Hóa “Thế Giới Phẳng”
The “World Is Flat” Globalization Gurus

Ký giả James Fallow, tác giả của nhiều bài báo về Trung Quốc đã viết như sau: “Cho đến nay, mối quan hệ kinh tế của Hoa Kỳ với Trung Quốc đã thành công và có lợi – và lợi cả đôi bên.”

Một ca làm việc trong nhà máy (ở Trung Quốc) thường là 12 tiếng, và thường với 2 lần nghỉ ở giữa cho họ dùng bữa (có trợ cấp hay miễn phí), sáu hay bảy ngày một tuần. Bất cứ khi nào có sự cố - nếu dây chuyền bị dừng lại vì lý do nào đó, hoặc nếu công nhân có dư chút thời giờ tại bữa ăn - nhiều người gục đầu vào cái bàn trước mặt và đánh ngay một giấc.”

Làm thế nào mà một trí thức Hoa Kỳ như James Follow lại có thể dung hòa phát biểu phần đầu và phần thứ hai của ông được? Đây là một câu hỏi hay, nhưng nếu “Những bậc thầy toàn cầu hóa” giỏi một thứ gì đó, thì đó là khả năng che đậy những mâu thuẫn dưới sự bao phủ của những câu chuyện hoang đường như chuyện Trung Quốc dựa vào bóc lột lao động lại được xem là “có lợi” cho Hoa Kỳ và những công nhân của họ.

Những bậc thầy Toàn cầu hóa là ai? họ là những người đàn ông (và thỉnh thoảng có những người đàn bà) viết những bài bóng bẩy và đăng trên những tạp chí và nhật báo có uy tín quốc gia như Atlantic Monthly, The New York Times và Tuần Báo Time. Ngoài Fallow, họ còn có những cái tên như Tom Friedman, Nocholas Kristof, và Fareed Zakaria đã đề cập trước đây.

Những nhân vật nói trên có chung một nền tảng nhận định rất sai lầm rằng các công nhân và những công ty Hoa Kỳ thuê mướn họ không còn khả năng cạnh tranh chi phí với những quốc gia đang phát triển như Trung Quốc.

Qua kinh nghiệm lịch sử, Hoa Kỳ luôn luôn có khả năng cạnh tranh với các nước có mức lương thấp hơn bằng lợi thế năng xuất vượt trội của nó. Với lợi thế đó, thực sự không trở thành vấn đề, nếu những công nhân ở Thẩm Quyến hay Sài Gòn kiếm 50 xu Mỹ Kim một giờ và công nhân Hoa Kỳ kiếm gấp 30 lần, và nếu những công nhân Hoa Kỳ - được trang bị với những kỹ thuật mới hơn và những trang thiết bị vượt trội – có thể có năng xuất cao gấp 30 lần.

Dĩ nhiên, vấn đề hiện nay của Hoa Kỳ với Trung Quốc không phải là cạnh tranh về lương thấp. Các công ty và công nhân Hoa Kỳ phải vượt qua những trợ cấp xuất khẩu phi pháp của Trung Quốc, sự thao túng tiền tệ và nhiều vũ khí tiêu diệt việc làm của Trung Quốc. Chưa một người Hoa Kỳ nào tỏ ý nghi ngờ về một chân lý kinh tế đã tồn tại rất lâu: Trên một sân chơi bình đẳng với Trung Quốc hay bất kỳ một quốc gia nào khác, các công ty và công nhân Hoa Kỳ có thể cạnh tranh với bất kỳ ai trên thế giới.

Do bởi chân lý này mà việc tuân thủ những cải cách thực sự về tiền tệ và mậu dịch đối với một Trung Quốc gian lận rất quan yếu tại thời điểm chuyển tiếp này trong lịch sử của chúng ta. Tuy vậy, các bậc thầy Toàn cầu hóa từ chối ghi nhận sự thật này và thay vì vậy, họ khăng khăng rằng những người công nhân Hoa Kỳ không cần những công việc sản xuất bởi vì những công việc này “dứt khoát” phải đưa sang những quốc gia như Trung Quốc.

Những bậc thầy Toàn cầu hóa không chỉ sai lầm mà họ còn sử dụng những vị trí quyền lực và đặc lợi của họ tại những đỉnh cao của các tờ báo để đánh lừa, và trong một số trường hợp, nói dối trắng trợn với công chúng Hoa Kỳ nhằm củng cố ý đồ toàn cầu hóa của họ. Ví dụ, Fareed Zakaria đã huyênh hoang chống lại cải cách tiền tệ Trung Quốc, từ vị trí đặc quyền của ông ta ở tạp chí Time như sau:

Ngày 29 tháng 8 năm 2010, Hạ Viện Hoa Kỳ thông qua dự luật nhằm trừng phạt việc Trung Quốc đã duy trì hối xuất thấp cho đồng tiền của họ dưới giá trị thực bằng việc đánh thuế suất trên hàng hóa của Trung Quốc. Mọi người dường như đồng ý rằng đó là thời điểm phải làm. Nhưng không phải thế. Dự luật này hoàn toàn vô nghĩa và tồi tệ hơn nữa là lối mị dân nguy hiểm. Nó sẽ không giải quyết được vấn đề mà nó đang tìm cách giải quyết. Đáng lo hơn, nó là một phần của tinh thần chống Trung Quốc đang lên ở nước Mỹ vốn bỏ lỡ những thách thức thực sự của giai đoạn phát triển kế tiếp của Trung Quốc.

Thật sự, ngay cả bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh cũng không thể khuấy tung một cách tài tình nghệ thuật hơn thế được. Khi lý luận rằng dự luật cải tổ tiền tệ sẽ “trừng phạt Trung Quốc”, Zakaria ngay từ đầu đã dàn dựng Trung Quốc như một nạn nhân đáng thương sẽ bị “đánh” bởi các sắc thuế hơn là kẻ săn mồi lái buôn mà Hoa Kỳ phải tự vệ để chống lại. Hãy trở về với trái đất Fareed: Đó là vi phạm nguyên tắc tự do mậu dịch nếu định giá đồng tiền thấp hơn 40% giá trị thật - đơn giản chỉ để bòn rút các đối tác mậu dịch của mình.

Zakaria còn khẳng định rằng đánh thuế trả đũa để bù đắp cho đồng tiền đánh giá thấp của Trung Quốc “sẽ không giải quyết vấn đề mà nó đang tìm cách giải quyết”. Luận điểm này của Zakaria không đúng. Nếu đưa đồng tiền của Trung Quốc trở về giá trị thật, thu nhập của Hoa Kỳ sẽ gia tăng trong tương quan mậu dịch với Trung Quốc và buộc họ phải hành xử đứng đắn.

Zakaria là một người hay chỉ trích những ai ủng hộ cải cách tiền tệ đối với Trung Quốc là “mị dân nguy hiểm” (dangerous demagoguery). Trong khi Zakaria là một người thân Tàu rất lộ liễu nhưng lại không nghiên cứu kỹ càng cho những lập luận bênh vực Trung Quốc của mình.

Ví dụ, Zakaria đã giải thích nguồn gốc của lợi thế về giá thành của Trung Quốc đối với những nhà sản xuất Hoa Kỳ trên Tạp chí Time. Với Zakaria, vấn đề không chỉ là lương thấp. Nó còn là các yếu tố khác như “sự hiếu khách trong kinh doanh, những công đoàn biết tuân thủ và lực lượng lao động cần cù.” Zakaria đã không hiểu thực chất của những gì mà Zakaria ca tụng về công nhân Trung Quốc. Đối với cái gọi là “sự hiếu khách trong kinh doanh” của công nhân Trung Quốc, Zakaria phải tin rằng tệ nạn tham nhũng lan tràn ở Trung Quốc bằng cách nào đó đã giúp cải thiện môi trường kinh doanh. Đối với “những công đoàn biết tuân thủ” của Zakaria, nó như việc thoa son cho heo; những công đoàn lao động Trung Quốc chỉ tồn tại trên danh nghĩa và Thượng Đế (và một toán bác sĩ nằm chờ) phải đến để giúp đỡ bất kỳ người nào đứng ra cố gắng thành lập một tổ chức lao động thực sự có thực lực điều đình. Và liên quan đến “lực lượng lao động cần cù” của Trung Quốc, nếu Zakaria không muốn nói là người Mỹ không sẵn lòng làm việc 12 tiếng một ngày, 6 ngày 1 tuần với những lần nghỉ để đi tiểu tiện được quy định trong điều kiện bóc lột tàn tệ thì vâng, Fareed, ông đã thắng ở điểm này.

Nhưng những điều này tương đối chỉ là những lý sự cùn nhỏ nhặt với phân tích của Zakaria về lợi thế chi phí sản xuất của Trung Quốc. Vấn đề lớn thực sự trong lập luận của ông ta là không hề đề cập đến những nguồn gốc thật sự của lợi thế cạnh tranh Trung Quốc. Đương nhiên, những vũ khí hủy diệt việc làm như đã đề cập trước đây vốn vi phạm gần như mọi nguyên tắc của tự do mậu dịch. Một lần nữa, như đã đề cập ở chương 4, nó bao gồm trợ cấp xuất khẩu phi pháp của Trung Quốc, thao túng tiền tệ tràn lan, làm hàng nhái trắng trợn và ăn cắp bản quyền, chính sách bắt buộc chuyển giao công nghệ phi pháp vân, vân… Và trong những cái vân vân đó, chúng ta đừng quên lợi thế chi phí của các nhà máy Con Rồng có được từ việc sử dụng các con sông, con suối của Trung Quốc và bầu khí quyển của thế giới như là những bãi xả rác khổng lồ.

Zakaria sở dĩ làm ngơ những nguồn gốc quan trọng nhất của lợi thế cạnh tranh Trung Quốc ngoài chuyện nhân công rẻ vì hai lý do. Thứ nhất, có thể Zakaria tuy hiểu rõ sức mạnh cùa nhũng vũ khí tiêu diệt việc làm nhưng cố tính làm ngơ. Thứ hai, có thể Zakaria không hiểu về kinh tế học trong quan hệ mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc nên mới bình luận lăng nhăng mà thôi.

Những Nhóm Tư Vấn Dẫn Mối Cho Gấu Trúc
The Panda-Pandering Think Tanks

Là thành viên cuối cùng của liên minh ủng hộ Trung Quốc, có nhiều Nhóm Tư Vấn Dẫn Mối Cho Gấu Trúc trong và ngoài Washington D.C vốn thường xuyên nhảy vào các cuộc tranh luận về Trung Quốc. Chúng tôi không biết chính xác tại sao những nhóm tư vấn này lại thân Trung Quốc như vậy và chúng tôi không có ý muốn đặt vấn đề về tính chính trực hay động cơ của họ. Tuy nhiên, chúng tôi muốn xác định những “nghi can thông thường” trong nhóm này, không có lý do nào khác hơn là khi gặp những luận điệu của họ trên các phương tiện truyền thông, bạn có thể hoài nghi các dữ kiện hay ý kiến dựa trên những nguồn của họ.

Sau đây là một danh sách không theo thứ tự gồm những nhóm tư vấn và các nhà phân tích thiếu sáng suốt và hiểu biết về Trung Quốc:

- Albert Kiedel của Atlantic Council.

- Peter Bottelier và Doug Paal của The Carnegie Endowment.

- Kenneth Lieberthal, Bob Rubin và John Thornton của The Brookings Institute.

- Charles Freeman của Center for Strategic and International Studies (Trung Tâm Chiến Lược và Nghiên Cứu Quốc Tế)

- Ed Gresser của Progressive Policy Institute.

Tóm Lược Về Liên Minh Ủng Hộ Trung Quốc

Để tổng kết về Liên Minh Ủng hộ Trung Quốc, sau đây là những điểm nổi bật cần chúng ta quan tâm để ý mỗi khi thấy một trong những lập luận này xuất hiện trên các mục bình luận, xã luận, diễn văn, tranh luận trên các phương tiện truyền thông, báo chí.

- Cáo Buộc (the sine qua non - điều kiện tất yếu) : Buộc tội bất cứ ai chỉ trích Trung Quốc là kẻ “đả kích Trung Quốc (China Basher).

- Vu Cáo (the Joe McCarthy): Chụp mũ bất cứ ai ủng hộ cải cách mậu dịch là kẻ “bảo thủ” (protectionist)

- Hù Dọa (Let’s play on our fears): Cảnh báo bất cứ nỗ lực nào nhằm bảo vệ Hoa Kỳ chống lại chính sách lái buôn và bảo hộ của Trung Quốc sẽ dẫn đến “trận chiến mậu dịch” (trade war).

- Cảnh Cáo (Make it a Stephen King horror novel): Dẫn chứng vai trò của sắc thuế Smoot-Hawley trong cuộc Đại Khủng Hoảng để tạo ấn tượng rằng một cuộc chiến mậu dịch với Trung Quốc sẽ tàn phá nền kinh tế toàn cầu.

- Răn Đe (Reverse – reverse psycholoy – tâm lý ngược): Cảnh cáo rằng nếu cố rắng gây áp lực đòi Bắc Kinh cải cách thì chỉ dẫn đến kết quả ngược.

- Câu Giờ (Stall for time after time): Nhấn mạnh rằng “bây giờ” không phải là thời điểm để cam kết các cải cách và lập lại lập luận này từ năm này sang năm khác.

- Dân Nghèo (Play the Walmart “poor people” card): Cho rằng bất cứ sự tổn hại nào cho hạ tầng sản xuất tại Hoa Kỳ sẽ được bù đắp nhiều hơn bằng lợi ích cho giới tiêu thụ được mua hàng rẻ của Trung Quốc.

- Xảo Ngôn (Use Stephen Roach’s shell game): Cho rằng vấn đế thâm thủng mậu dịch của Hoa Kỳ là một vấn đề đa phương của cả thế giới thay vì là chủ yếu song phương với Trung Quốc.

- Đổ Lỗi (Engage in self –loathing - tự trách): Cho rằng trách nhiệm trong sự bất cân xứng trong cán cân mậu dịch của Hoa Kỳ là do tỷ lệ tiết kiệm thấp của Hoa Kỳ chứ không do thủ đoạn lái buôn của Trung Quốc.

- Lừa Bịp (Can I sell you the Brooklyn Bridge): Cho rằng đồng tiền Trung Quốc không thật sự bị định giá thấp đến mức đó – hay không bị định giá thấp chút nào.

- Bào Chữa (Use the Marie Antoinette – Fared Zakaria defense): Cho rằng cải tổ mậu dịch với Trung Quốc sẽ không giúp Hoa Kỳ mà chỉ chuyển mậu dịch sang những quốc gia có chi phí thấp như Bangladesh và Việt Nam.

(Còn Tiếp)

Lý Thái Hùng
Ngày 26/10/2011

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét