13 tháng 9, 2010

Đọc "Trung Quốc: Siêu Cường Mong Manh" (phần 1)

Đọc TRUNG QUỐC: SIÊU CƯỜNG MONG MANH (China: Fragile Superpower) của Nữ Tiến Sĩ Susan L. Shirk

Lời Mở Đầu: Theo thống kê của Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF vào năm 2009, nền kinh tế của Hoa Kỳ lớn nhất thế giới với GDP là 14.26 ngàn tỉ Mỹ Kim; đứng thứ hai là Nhật Bản với 5.07 ngàn tỉ Mỹ Kim và Trung Quốc xếp ở vị trí thứ ba với 4.91 ngàn tỉ Mỹ Kim. Tuy nhiên, theo tin tức thì trong Quý II năm 2010, GDP của Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản và với mức tăng trưởng của Trung Quốc tới 10%/năm trong khi kinh tế của Nhật chỉ tăng ở mức 2-3%/năm nên có nhiều triển vọng kinh tế Trung Quốc sẽ đứng hàng thứ hai thế giới trong năm 2010.


Tuy có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, nhưng Trung Quốc vẫn là nước nghèo. Lợi tức bình quân đầu người Trung Quốc là 3.000 Mỹ Kim trong khi người Nhật Bản là 37.800 Mỹ Kim/năm. Điều này cho thấy là kinh tế Trung Quốc vượt qua Nhật Bản chỉ mang tính biểu tượng về con số chứ không có ý nghĩa về thực chất. Chính điều này, các nhà nghiên cứu đã cho rằng sự phát triển của Trung Quốc không bền vững và rất mong manh. Tại sao như vậy? Xin mời quý độc giả theo dõi bài viết của tác giả Lý Thái Hùng về tập sách: "Trung Quốc - Siêu Cường Mong Manh" của Tiến sĩ Susan L. Shirk, Giáo sư Đại Học San Diego, Tiểu Bang California, Cựu Phó Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, đặc trách quan hệ Trung Quốc từ năm 1997 đến năm 2000.



I- Dẫn Nhập:

Trong 3 năm, từ năm 2007 đến 2009 có khoảng non 250 đầu sách viết về Trung Quốc của các tác giả Phương Tây. Những đầu sách này chia ra làm ba loại: 1/ Những sách viết về sự phát triển kinh tế và vị trí cường quốc của Trung Quốc trong những năm trước mặt. 2/ Những sách phân tích về sức mạnh quân sự và các chính sách bành trướng của Trung Quốc trong thế kỷ 21; 3/ Những sách viết về các vấn đề xã hội, chính trị, sắc tộc mà Trung Quốc đang phải đối phó và có nguy cơ đe dọa sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Trung Quốc.

Trong ba loại đầu sách nói trên có thể nói đa số các học giả bỏ thời giờ nghiên cứu và viết nhiều về tình hình phát triển kinh tế vượt bực của Trung Quốc. Rất ít đầu sách phân tích về mặt tiêu cực và những khó khăn mà Trung Quốc đang đối diện. Đây cũng là điều dễ hiểu vì sự phát triển của Trung Quốc trong vòng 30 năm qua, kể từ năm 1978 đã thu hút hầu hết sự chú mục của các chuyên gia quốc tế về một “kỳ tích phát triển” của thế giới đang trổi dậy, sau “kỳ tích phát triển Nhật Bản” vào thập niên 60 của Thế Kỷ 20.

Trong rừng sách ca tụng sự thành công của Trung Quốc, tác phẩm China: Fragile Superpower: How China’s Internal Polictics Could Derail its Peaceful Rise (Trung Quốc: Siêu Cường Mong Manh. Làm thế nào mà nội tình chính trị Trung Quốc có thể làm trật đường rầy trong sự trổi dậy Hòa Bình của Trung Quốc) của nữ Tiến Sĩ Susan L. Shirk ra đời đã gây một sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Mặc dù tác phẩm đã xuất bản từ giữa năm 2007, nhưng cho đến nay vẫn còn được độc giả đón nhận một cách rộng rãi. Lý do là vì những nội dung phân tích trong tập sách này đã được chứng nghiệm là đúng xuyên qua những biến chuyển tại Trung Quốc trong thời gian gần đây.

Nữ Tiến Sĩ Susan L Shirk là một học giả về Trung Quốc. Bà đã viếng thăm Trung Quốc lần đầu tiên vào năm 1971, trong nhóm 15 sinh viên tốt nghiệp đại học do lời mời của chính phủ Trung Quốc. Năm 1997 bà vào làm việc trong chính quyền Tổng thống Clinton với chức vụ là Phó phụ tá Ngoại trưởng, đặc trách về các vấn đề bang giao với Trung Quốc. Tác giả đã rời Bộ ngoại giao vào năm 2001 và trở về giảng dạy tại Đại học San Diego Hoa Kỳ từ năm 2006 cho đến nay.

Tác giả cho biết, khi vào làm việc trong chính quyền Clinton vào năm 1997, trong đầu bà luôn luôn ám ảnh nỗi bồn chồn về một cuộc chiến có thể bùng nổ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, vì một năm trước đó, Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn đã gườm nhau về chuyện Đài Loan. Lúc đó, Trung Quốc đang tiến hành nhiều cuộc tập trận cỡ lớn, thử nghiệm hỏa tiễn trong vùng biển bên ngoài các hải cảng của Đài Loan. Mục tiêu của Trung Quốc là biểu lộ sự giận dữ của họ đối với việc Hoa Kỳ đã mời ông Lý Đăng Huy, Tổng thống Đài Loan đến viếng thăm trường đại học Cornell – nơi ông Lý Đăng Huy đã tốt nghiệp - để diễn thuyết. Đối với Bắc Kinh, việc Hoa Kỳ cho phép ông Lý Đăng Huy đến Mỹ - dù bất cứ lý do gì – đã coi như “công nhận Đài Loan là một quốc gia độc lập” vi phạm điều mà Hoa Kỳ đã cam kết với Trung Quốc coi Đài Loan chỉ là một đảo nhỏ của Trung Quốc mà thôi.

Công việc chính của Tác giả trong chính quyền Clinton là cải thiện và tạo nền tảng tốt đẹp cho mối quan hệ Trung - Mỹ. Để làm tốt điều này, Tác giả cho biết là đã dành khá nhiều thì giờ quan sát và tìm hiểu những đối phó của lãnh đạo Trung Quốc về các vấn đề bên trong nội bộ của đảng và nhà nước. Khác với Hoa Kỳ, những lãnh tụ Trung Quốc rất quan tâm đến những diễn biến chính trị nội bộ mà họ gọi là “an ninh chính trị” ở bên trong. Theo bà, sự thay đổi chính trị nội bộ ở các quốc gia Phương Tây là điều bình thường; nhưng đối với Trung Quốc - nếu sự thay đổi vượt qua tầm kiểm soát của họ - nó không chỉ làm ảnh hưởng đến sự tồn vong của đảng Cộng sản, mà quan trọng hơn là chính gia đình và thân nhân họ có thể sẽ mất tất cả.

Dựa theo kinh nghiệm, Tác giả cho rằng lãnh đạo Bắc Kinh thiếu an ninh chính trị (political insecurity) rất trầm trọng. Biến cố Thiên An Môn vào năm 1989 là một bài học xương máu cho họ. Theo Tác giả, mặc dù các lãnh tụ Bắc Kinh trông như những gã khổng lồ đối với chúng ta từ thế giới bên ngoài do sự thành công to lớn về mặt phục hồi kinh tế, quân đội và sức mạnh chính trị kể từ khi tung ra chính sách hiện đại hóa vào năm 1978; nhưng các lãnh tụ Bắc Kinh cảm thấy như những đứa trẻ đang sợ hãi, cố gắng một cách tuyệt vọng để bám giữ vị trí tột đỉnh trong xã hội từ những dao động của sự thay đổi kinh tế.

Những nhận xét nói trên đã là nội dung chính của tập sách Trung Quốc: Siêu Cường Mong Manh, mà nữ Tiến sĩ Susan đã đúc kết từ những kinh nghiệm làm việc và trao đổi với các quan chức Trung Quốc. Theo Tác giả, các lãnh tụ Trung Quốc cảm thấy thiếu “an ninh chính trị” vì những lý do:

Trước hết, những người như Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo, Giang Trạch Dân chỉ giỏi về tổ chức; nhưng chẳng có một chút gì quyến rũ, hấp dẫn ở trong đảng, so với quá khứ hào hùng của thế hệ họ Mao, Đặng, Chu. Họ cũng nhận ra rằng, sau 30 năm cải tổ kinh tế và mở cửa đã làm đảo lộn “xã hội chuyên chính” và tạo ra những thách đố chính trị cho hệ thống cầm quyền cộng sản hiện nay. Đảng không còn khả năng theo dõi cũng như bị mất kiểm soát dân số. Hơn 100 triệu nông dân bỏ nông thôn đi vào thành phố kiếm sống. Ba phần tư lực lượng lao động làm việc ngoài hệ thống quản lý của đảng, còn gì là ý nghĩa của câu: “đảng là đại diện của giai cấp công nhân?”

Kế đến, lãnh tụ Bắc Kinh đã không còn khả năng kiểm soát thông tin như họ mong muốn mà phải chạy theo thị hiếu của người dân để tung ra hàng loạt sản phẩm tuyên truyền sao cho “coi được”. Đã hết rồi cái thời ai cũng phải đọc Nhân dân Nhật báo và xem tin tức lúc 7 giờ trên đài truyền hình đầu tiên. Hiện đã có trên 150 triệu người truy cập vào Internet để lấy thông tin từ các mạng mình muốn. Rất ít ai đọc báo và xem tin tức trên truyền hình. Vì thế mà trang mạng đã cạnh tranh nhau đưa tin và bài vở lên nhanh nhất hầu thu hút đông đảo số lượt người truy cập để câu quảng cáo. Vì thế, các lãnh tụ Bắc Kinh không còn đủ khả năng kiểm soát dân chúng tránh xa những bản tin “độc hại”.

Sau cùng, sự phát triển kinh tế trong 30 năm qua, đưa Trung Quốc lên thành một trong vài nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới là một kỳ tích của nhân loại; nhưng về căn bản Trung Quốc vẫn là quốc gia nghèo. Sự phân cực giàu nghèo trong xã hội hiện nay là một lo ngại lớn cho các lãnh tụ Bắc Kinh. Các lãnh tụ Bắc Kinh lo lắng sự phân cực giàu nghèo sẽ tạo ra sự xáo trộn trong xã hội là vì dân Trung Quốc tin rằng những ai giàu có, ăn trên ngồi trốc thường là những người không làm ăn lương thiện mà do tham nhũng, móc ngoặc. Trung quốc hiện có đến hàng chục trăm triệu người sống trong sự đói nghèo triền miên.

Các lãnh tụ Trung Quốc biết rất rõ sự phát triển bất cân xứng của xã hội Trung Quốc. Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo đang cố gắng ngăn chận tình trạng xáo trộn do phân cực giàu nghèo gây ra bằng cách tung ra hàng loạt chính sách quan tâm đến việc nâng cao đời sống các hộ dân nghèo, với khẩu hiệu xây dựng Trung Quốc là “xã hội hài hòa”. Dù vậy, mặc cho mọi cố gắng theo kiểu tình thương cộng sản, chống đối của những người thất nghiệp và những nông dân bất mãn vẫn xảy ra hàng ngày. Cái lo sợ của lãnh tụ Trung Quốc là một ngày nào đó khối quần chúng bất mãn vì nghèo đói nắm tay được với những nạn nhân trong các vụ ô nhiễm môi trường đang lan tỏa trên toàn quốc vì những phát triển công nghiệp bừa bãi, tạo thành cơn địa chấn phản kháng sẽ mạnh gấp mấy chục lần biến cố Thiên An Môn năm 1989.

Ngoài ra, theo Tác giả, một mối lo khác của các lãnh tụ Bắc Kinh là chủ nghĩa dân tộc đã trổi lên mạnh mẽ trong lúc Trung Quốc đang phục hồi sức mạnh của mình. Bắc Kinh rất lo ngại những phản ứng của quần chúng trước những yếu thế của họ đối với các vấn đề đối ngoại, đặc biệt là những đối phó về các vấn đề Đài Loan, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Chủ nghĩa dân tộc đã từng kích động lòng dân làm sụp đổ hai triều đại trước đó: Triều đại nhà Thanh (1644-1911) và Cộng hòa Trung Hoa (1911-1949). Cả hai triều đại đó đều sụp đổ do những cuộc nổi dậy của toàn dân, trong đó những thành phần nông dân và thành thị bất mãn vì những lý do nội bộ đã liên kết với nhau thành lực lượng dân tộc chủ nghĩa mạnh mẽ. Những triều đại ấy sụp đổ bởi vì nhân dân thấy rằng họ quá yếu kém trong việc đối diện với sức ép bên ngoài. Các lãnh tụ Bắc Kinh không muốn tình trạng trên xảy ra cho họ và vì thế họ luôn luôn đi đầu trong chủ nghĩa dân tộc tại Trung Quốc, nhất là khi đối kháng với Nhật và Hoa Kỳ.

Nỗi sợ hãi của các lạnh tụ Bắc Kinh về sự sống còn của họ và gia đình chính là nguyên nhân thúc đẩy cho tất cả mọi việc họ làm, trong chính sách đối nội lẫn đối ngoại. Đây là điểm cốt lõi mà nữ tiến sĩ Susan, đã mô tả về cách hình thành thái độ của Trung Quốc đối với thế giới từ sự mong manh của chính nội tình Trung Quốc trong tác phẩm Trung Quốc: Siêu Cường Mong Manh.

II-Nội Dung:

Tập sách Trung Quốc: Siêu Cường Mong Manh đã được nữ Tiến sĩ Susan L. Shirk bắt đầu viết trong thời gian 2004-2005 khi đang nghiên cứu tại đại học Stanford, tiểu bang California. Tập sách dày khoảng 300 trang, có tất cả 9 chương:

Chương 1: Mạnh Bên Ngoài Nhưng Mong Manh Bên Trong (Strong Abroad but Fragile at Home)

Đây là chương Tác giả mô tả những mâu thuẫn về hình dáng Trung Quốc đối với bên trong và bên ngoài. Tác giả cho rằng: những thay đổi đang tiến hành bên trong Trung Quốc đã mở ra một triển vọng lớn về hòa bình thế giới, nhưng do những tham vọng duy trì sự kiểm soát độc đoán về chính trị của các nhà lãnh đạo cộng sản sẽ có thể tạo ra những tình huống nguy hiểm hơn. Đó là lãnh đạo Trung Quốc đang đối mặt những nghịch lý đáng lo ngại. Quốc gia càng phát triển và càng phồn thịnh thì lãnh đạo cảm thấy không an tâm và bị nhiều thách đố. Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc ngày hôm nay dễ bị tan vỡ, chế độ độc tài rất sợ chính người dân của họ và có thể bị khuất phục để thỏa mãn những đòi hỏi của các chính phủ ngoại quốc. [1]

Sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đã làm cho những nhà lãnh đạo của họ hiện lù lù trước thế giới như một anh khổng lồ cao 10 feet. Nhưng hình ảnh của chính họ thì không như vậy. Theo Tác giả: Sự đè nặng hình bóng của Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình – mà những người kế thừa phải tôn kính - khiến những nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay cảm thấy bé nhỏ, chiến đấu một cách vất vả để giữ vị trí đứng đầu xã hội bởi sự khuấy động của thay đổi kinh tế. Trung Quốc mạnh hơn về kinh tế và an toàn hơn trên thế giới so với thế kỷ 19, nhưng điều nghịch lý là những lãnh tụ cộng sản có cảm giác âu lo về những bất ổn ở trong nước. Trung Quốc có thể là một siêu cường mới nổi, nhưng nó cũng rất mong manh. Và nó chính là sự khủng hoảng nội bộ chứ không do kinh tế hay do sức mạnh quân sự, biểu hiện một sự nguy hiểm đối với chúng ta. [1]

Vào năm 1989, chế độ độc tài tại Trung Quốc đã bị lung lay tận gốc rễ bởi làn sóng phản kháng của sinh viên toàn quốc và đã làm phân hóa thành phần lãnh đạo về cách giải quyết nó. Nhiều người đã nêu lên một nghi vấn của quá khứ: Nếu quân đội từ chối nghe lời Đặng Tiểu Bình dùng vũ lực tái lập trật tự vào tháng 6 năm 1989 thì chuyện gì đã xảy ra? Nếu quân đội án binh bất động, có lẽ đảng Cộng sản Trung Quốc chịu chung số phận như Liên Xô. Dầu là nghi vấn không xảy ra nhưng nó luôn luôn ám ảnh trong đầu óc lãnh đạo, trên con đường phát triển của Trung Quốc.

Chính sự ám ảnh này, theo Tác giả thì: Từ năm 1989 trở đi, lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu chú ý đến điều mà người ta hay gọi là “ổn định xã hội”. Họ sử dụng cách nói trại để thuyết phục trong công chúng và dư luận rằng quyền lực của đảng Cộng sản là căn bản để bảo vệ trật tự và thịnh vượng và không có nó, một quốc gia rộng lớn như Trung Quốc sẽ bị rơi vào khủng hoảng và nội chiến. Trong các bài nói chuyện, các nhà lãnh đạo đã không che dấu những lo âu của họ về sự bất ổn xã hội. [2]

Trong một văn kiện phổ biến vào tháng 9 năm 2004 bởi Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc đã thừa nhận một cách công khai lần đầu tiên rằng quyền lực của đảng Cộng sản không thể kéo dài mãi mãi tại Trung Quốc. Dưới tiêu đề: “Từ bài học đau thương của sự mất quyền lực của đảng Cộng sản Liên Xô và Đông Âu”, Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc đã viết: “Thật không phải là dễ dàng cho một đảng chính trị vô sản giành quyền lực, và thậm chí còn khó hơn việc thực hiện quyền lực chính trị tốt, đặc biệt là khi nó nắm quyền trong một thời gian dài, và tình trạng của đảng như một đảng cầm quyền không nhất thiết lâu dài bởi vì đảng không phải là cái gì mà một khi đạt được không bao giờ bị mất. [3]

Đối diện với những bản báo cáo hàng ngày về những cuộc chống đối bạo lực, lãnh đạo Bắc Kinh không bao giờ coi sự quan sát quốc tế là một ưu tiên. Một trong những ưu tiên của họ là duy trì quyền lực của đảng Cộng sản. Tác giả kể lại một dịp may hiếm có cách đây vài năm khi tham gia đóng vai lãnh đạo tối cao Trung Quốc trong vở kịch thuộc loại tài liệu không mật - một trò chơi nhập vai được thiết kế để lường trước tình huống mà những nhà soạn chính sách của Hoa Kỳ sẽ phải đối mặt trong tương lai. Kịch bản có liên quan đến tình trạng bất ổn lao động trên quy mô lớn tại một số vùng của Trung Quốc. Tất cả những người tham gia - như bà đóng vai những nhà lãnh đạo Trung Quốc tập trung huy động cảnh sát và quân đội để dập tắt các cuộc biểu tình và ngăn ngừa chúng lan rộng đến các nhóm khác và những địa phương khác. Kịch bản đòi hỏi bà không chú ý gì đến những lời chỉ trích trên thế giới đang được phát sóng qua những truyền hình đang đặt chung quanh phòng đóng kịch. Mặc dù không có thông tin cụ thể về cá tính của cá nhân các nhà lãnh đạo, nó đã rõ ràng rằng tính tự nhiên của hoàn cảnh đòi hỏi bà và tất cả mọi người tham gia vở kịch phải đặt sự quan tâm quốc nội trước mối quan tâm quốc tế. Tác giả kết luận rằng đối với lãnh đạo Bắc Kinh thì trong cuộc khủng hoảng nội bộ, giữ chặt sự kiểm soát bên trong là rất quan trọng hơn những quan hệ đối ngoại.

Trong khi lo ngại những bất ổn xảy ra bên trong thì đối với bên ngoài, Trung Quốc đã cố tỏ thái độ hợp tác với mọi quốc gia. Bắc Kinh đã tìm cách trấn an các nước láng giềng Châu Á về ý định làm lành của mình. Trung Quốc đã giải quyết gần như tất cả các tranh chấp biên giới, mời ký các hiệp định thương mại tự do với Đông Nam Á, Hàn Quốc, và Nhật Bản và thành lập diễn đàn mới cho hợp tác khu vực. Nổi bật nhất là bước tiến nhằm hóa giải sự bế tắc nguy hiểm giữa Hoa Kỳ và Bắc Triều Tiên về chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên và đồng ý với những thành viên khác trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế đối với Bắc Triều Tiên sau khi nước này thử nghiệm bom hạt nhân. Tất cả những hành động hợp tác này đã làm tăng ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc và là bắt nguồn từ sự quan tâm của các nhà lãnh đạo trong việc đạt được một môi trường hòa bình quốc tế để duy trì tăng trưởng kinh tế và ngăn chặn bất ổn xã hội. [4]

Chương 2: Kỳ Tích Kinh Tế Trung Quốc (China’s Econmic Miracle)

Trong chương này, Tác giả đã trình bày những nhận xét về sự phát triển vượt bực của Trung Quốc sau 30 năm mở cửa và những tiến bộ kỹ thuật có thể đưa Trung Quốc trở lại vị trí hàng đầu thế giới cách nay 1000 năm.

Tác giả viết: Trung Quốc ngày nay tôi đến thăm có vẻ như là một hành tinh khác hẳn so với lần tôi đến thăm vào năm 1971. Những tòa nhà chọc trời lộng lẫy, điện thoại di động mọc ở khắp nơi, giao thông chật cứng và những quán cà phê Starbuck đông nghẹt người chẳng khác gì từ những quán ở Seoul, Tokyo hay ở New York. Trung Quốc có đến 174 thành phố lớn với dân số hơn 1 triệu người.... Sự phát triển kinh tế cũng đã làm ô nhiễm nguồn nước và không khí và hàng ngày đã có chống đối từ những công nhân bị đuổi việc, những nhóm người bất bình khác và xuất hiện sự căng thẳng mới về giai cấp giữa giàu và nghèo ngày càng rõ nét. Nhưng dù thế nào chăng nữa, Trung Quốc hiện đang có sức mạnh kinh tế tăng trưởng với tốc độ đáng kể. [5]

Căn cứ vào tỉ giá hối đoái hiện hành để làm tiêu chuẩn đánh giá, Trung Quốc năm 2005 là nước có nền kinh tế xếp thứ tư thuộc nhóm kinh tế lớn nhất thế giới. Tổng sản lượng nội địa (GDP) của Trung Quốc đạt 2,23 ngàn tỷ Mỹ kim, vượt hơn cả Pháp, Anh và Ý. Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ, Nhật và Đức mà thôi. (Năm 2009 Trung Quốc đã vượt qua Đức và 2010 đã vượt qua Nhật, hiện đứng sau Hoa Kỳ - chủ thích LTH). [6]

Trung Quốc hiện trở thành một công trường sản xuất của thế giới, chẳng khác nào Anh Quốc vào cuối thế kỷ 19. Trung Quốc nay là nhà sản xuất chuyên về sắt thép lớn nhất thế giới, chiếm 1/3 sản phẩm sắt thép của thế giới. Tổng sản lượng sản phẩm do nhà máy của nó sản xuất ra nay đã đạt mức độ chỉ đứng sau Hoa Kỳ và Nhật Bản mà thôi. Những nhà máy Trung Quốc – chủ nhân đa phần là các công ty nước ngoài – cung ứng 2/3 sản phẩm của thế giới gồm những máy Photocopy, lò Viba, đầu máy DVD và giày dép. 40% hàng hoá tiêu thụ tại Hoa Kỳ mua từ bên ngoài là sản xuất từ Trung Quốc. Nếu mỗi chúng ta liệt kê ra những quần áo, đồ gia dụng và những thiết bị máy móc sử dụng trong nhà, có lẽ chúng ta sẽ tìm thấy rằng phần lớn là những sản phẩm làm ở Trung Quốc và giá cả thậm chí còn rẻ hơn nhiều so với những vật dụng tương tự như vậy mà chúng ta đã có cách đây 20 năm khi mà Trung Quốc chưa bắt đầu sản xuất ra chúng. [7]

Đặc biệt, Trung Quốc còn vượt xa Hoa Kỳ khi nó trở thành nơi sản xuất hàng đầu của thế giới về các sản phẩm công nghệ chuyên trong lĩnh vực thông tin truyền thông, chẳng hạn như điện thoại di động (moblie telephones), máy vi tính xách tay (laptop) và máy quay phim kỹ thuật số (digital camera). Trung Quốc cũng là nơi sản xuất lớn nhất thế giới về cương liệu (Hardwave) của máy điện toán, mặc dù nó là nước đi sau Hoa Kỳ trong sự phát triển nhu liệu (software). Tuy không dễ đáp ứng được các tiêu chuẩn của Phương Tây, loại xe có mui kín hiệu “Zhonghua” do Công ty chế tạo ô tô Brilliance China sản xuất, hiện nay vẫn đang dẫn đầu Châu Âu, và có một nhà sản xuất xe hơi khác nữa của Trung Quốc là Chery Automobile, đang có kế hoạch đưa xe sang tiêu thụ ở thị trường Hoa Kỳ. [8]

Trung Quốc giờ đây là nước xuất khẩu lớn thứ ba thế giới, chỉ đứng sau Mỹ và Đức. Cán cân ngoại thương tăng 25 lần từ giữa năm 1978- 2000. Chỉ mới trong 25 năm thôi, Trung Quốc đã đi từ nền kinh tế “đóng” sang hình thái kinh tế “mở”, mang tính hội nhập cao vào nền kinh tế thế giới. Trung Quốc ngày nay đang hội nhập toàn cầu vì nó thu được lợi nhuận từ nền kinh tế toàn cầu nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới trong suốt nhiều thập niên qua. Từ viễn cảnh này, toàn cầu hóa rồi đây như một trò chơi mà Trung Quốc sẽ là kẻ chiến thắng. [9]

Vấn đề là kỳ tích kinh tế của Trung Quốc sẽ tồn tại đến chừng nào? Tác giả cho là: nếu không xảy ra khủng hoảng kinh tế hay chính trị, Trung Quốc sẽ giữ vững vị trí tiếp tục tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn hai thập niên nữa. Không giống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan, Trung Quốc vốn có tài nguyên thiên nhiên rất trù phú và có sẵn nguồn cung ứng nhân công dồi dào rẻ và có giáo dục. Hơn phân nửa trong số họ vẫn còn ở khu vực nông nghiệp. Khi lương công nhân tăng lên tại những công ty có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập ở các khu chế xuất ven biển thì những công ty này có thể di chuyển sâu vào nội lục khoảng vài trăm dặm để tìm những người thợ tốt đang muốn tìm việc làm với đồng lương ít hơn. Tỷ xuất tiết kiệm của Trung Quốc đứng vị trí cao nhất: xấp xỉ 40% so với tất cả các nước khác trên thế giới, có thể sẽ giảm xuống và làm giảm bớt một số đầu tư vốn trước đó đã được đầu tư làm cho nền kinh tế nước nhà phát triển. [10]

Sự tăng trưởng của Trung Quốc sẽ chậm lại sau năm 2025 như chính lứa tuổi dân số. Còn ngay hiện tại, Trung Quốc may mắn là một nước đông dân có rất nhiều nhân công đang ở tuổi lao động – chiếm 70% toàn bộ dân số cả nước trong năm 2000 – điều này có thể dễ dàng chu cấp cho những người liên hệ như trẻ em và cha mẹ già. Khi số người trên 60 tuổi gia tăng gấp đôi từ 128 triệu trong năm 2000 lên đến 350 triệu trong năm 2030 thì sự biến chuyển của nhân chủng học sẽ đặt gánh nặng lên chính quyền Trung Quốc về chế độ chăm sóc sức khoẻ và trợ cấp, trừ khi Trung Quốc giải quyết từ bây giờ và đến lúc đó. Vào năm 2065, Trung Quốc sẽ có 54 % dân số ở vào tuổi trên 60 và sẽ chỉ có 22 % dân số đang ở tuổi lao động (trừ khi chính phủ xúc tiến ngay việc khích lệ dân chúng phải có gia đình đông người hơn hoặc mở rộng chính sách di dân). Giống như các quốc gia khác như Nhật Bản và Nam Hàn cũng đã và đang phải đương đầu tình trạng lão hóa dân số. Tuy nhiên, Trung Quốc sẽ gặp khó khăn nhiều hơn, bởi vì như Barry Naughtion nhận xét “Trung Quốc sẽ già đi trước khi đất nước có cơ hội trở nên giàu có”. [11]

Chương 3: Những Đe Dọa Bên Trong (Domestic Threats)

Đây có lẽ là chương mà Tác giả viết công phu nhất với những phân tích và chứng minh các dữ kiện đính kèm rất thuyết phục. Đây là chương mà nhiều nhà nghiên cứu phương Tây đánh giá cao kinh nghiệm của Tác giả về Trung Quốc. Nếu độc giả Việt Nam không có thì giờ đọc hết quyển sách này thì chỉ cần đọc Chương 3 cũng đủ nắm được tại sao Trung Quốc là Siêu Cường Mong Manh?

Cơn chấn thương Thiên An Môn vào năm 1989 đã đặt giới lãnh đạo Trung Quốc vào chỗ như sợi chỉ treo mành. Chỉ vài tháng sau vụ đàn áp, bức tường Bá Linh sụp đổ, quần chúng Rumania nổi lên lật đổ chế độ cộng sản độc tài Nicolai Ceausescu, và các chế độ cộng sản ở Đông Âu lần lượt theo nhau tan rã nhanh chóng. Ngay cả Liên Xô, một chính quyền cộng sản mạnh nhất thế giới, cũng xụp đổ vào năm 1991. Chừng nào tới phiên Trung Quốc? Lúc đó, ông Đặng Tiểu Bình khuyên những người kế thừa đang hốt hoảng của ông hãy bình tĩnh, đừng vọng động; nhưng bầu không khí lo âu rõ ràng là đang bao quanh khu Trung Nam Hải.

Trước những biến chuyển đó, họ Đặng Tiểu Bình kết luận như sau: "Trong tất cả những vấn đề của Trung Quốc, vấn đề hàng đầu là nhu cầu ổn định. Chúng ta phải làm bằng mọi giá để có được sự ổn định... Và chúng ta không thể quan tâm tới người ngoài nói gì... Chúng ta sẽ xử dụng phương cách khắc khe để dập tắt dấu hiệu rối loạn ngay từ trong trứng nước. Điều này chứng tỏ chúng ta sẽ không chấp nhận sự can thiệp của bên ngoài và sẽ bảo vệ chủ quyền quốc gia". [12]

Những người kế thừa của họ Đặng đã bị ám ảnh là họ có thể gặp số phận tương tự như các cựu đồng chí Liên Xô và Đông Âu. Vào năm 2005, Hồ Cẩm Đào ra lệnh cho các trường đại học và các cơ quan nghiên cứu thêm vào chương trình học tập chính trị Thiên An Môn phần phân tích phong trào "cách mạng mầu" đã làm xụp đổ các chế độ chuyên chính ở các nước như Serbia (2000), Georgia (2003), Ukraine (2004), và Kyrgyzstan (2005). ("Gọi là "cách mạng Màu" vì những cuộc cách mạng bất bạo động này đã dùng một màu hay bông hoa làm biểu tượng cho cuộc đấu tranh lật đổ những chế độ độc tài được thiết lập trong các xã hội hậu Cộng sản tại Đông Âu và Trung Á.)

Theo lời khuyên của họ Đặng, đảng Cộng sản Trung Quốc ngày nay đặt sự ổn định chính trị lên trên hết. Mặc dù chưa hề công khai bàn về vấn đề này song đảng cũng đã thỏa thuận phương thức tạo sự ổn định như sau: 1) Tránh công khai sự phân hoá trong lãnh đạo, 2) Ngăn chận bất ổn xã hội để không cho lan rộng, và 3) Giữ quân đội đứng cùng một phiá với đảng. [13]

Để tránh công khai sự phân hóa trong hàng ngũ lãnh đạo, lãnh đạo Bắc Kinh làm mấy việc sau đây:
  1. Đảng và chính quyền giữ mọi tranh luận bí mật để duy trì một bề mặt nhất trí. Không có một tờ báo hay trang nhà nào trong Hoa Lục dám tiết lộ về những gì thực sự đã được thảo luận tại những buổi họp này.
  2. Thành viên trong Ủy ban Trung ương được sắp xếp sao cho mỗi bộ đều có đại diện và hầu như mỗi tỉnh đều có hai đại diện. Quân đội Giải phóng Nhân dân có một khối đại dịện lớn nhất trong Trung ương đảng.
  3. Giữ chặt trong tay quân đội và ký giả, tức là đảng phải nắm Cây súng lẫn Cây bút. Nhiệm vụ này được giao cho một ủy ban liên ngành gồm: Ban tổ chức trung ương, Ban Tuyên truyền trung ương, Bộ An ninh quốc gia và An ninh công cộng, Quân đội và Công an.
  4. Ủy ban thường vụ Bộ chính trị trực tiếp điều hướng các diễn biến “tế nhị” liên quan đến những căng thẳng với Nhật Bản, Đài Loan và Hoa Kỳ. Những vấn đề đối ngoại khác giao cho Bộ ngoại giao.
Trên bề mặt thì liên hệ giữa các nhân vật trong Đảng Cộng sản Trung Quốc có vẻ êm thấm. Không có dấu hiệu nào cho thấy có sự xung đột giữa ông Hồ Cẩm Đào với ông Ôn Gia Bảo, cũng như không thấy một dấu hiệu nào về sự phân hóa trong Ủy ban thường vụ Bộ chính trị... Tuy nhiên đã có một số biến chuyển không tốt báo hiệu những phân hoá ngấm ngầm trong nội bộ đảng đang xảy ra. Sau hai thập niên đồng ý với chính sách yểm trợ cuộc cải cách thị trường, các nhà lý thuyết gia Mác-xít về nền kinh tế tây phương và kinh tế thị trường đã tung ra một loạt công kích mãnh liệt vào các chương trình cải cách, nguyên nhân của tình trạng bất bình đảng, sự bất ổn xã hội, và nạn tham nhũng... Phái Tả khuynh mới, gồm những trí thức trẻ đã theo học chủ nghĩa Mác-xít tại các trường đại học Mỹ, chỉ trích chính sách đối ngoại của Trung Cộng là quá nhân nhượng. [14]

Để ngăn chận bất ổn xã hội để không cho lan rộng, lãnh đạo Bắc Kinh tiến hành các biện pháp:

  1. Buộc dân chúng phải tuân thủ các “mệnh lệnh” (luật lệ) của đảng Cộng sản một cách tuyệt đối vì đó là điều cốt yếu để duy trì trật tự và phồn thịnh, và nếu không có nó, một nước rộng lớn như Trung Hoa sẽ rơi vào tình trạng nội chiến và hỗn loạn.
  2. Theo dõi rất sát về mức độ bạo động của những cuộc biểu tình tại các nơi ở trong nước để nghiên cứu và phân tích cặn kẽ các biến động và những nguyên nhân xã hội sâu xa. Mọi nỗ lực, đối nội cũng như đối ngoại, đều nhắm vào việc giữ cho những vụ chống đối của quần chúng không được bùng nổ lớn và nếu có bùng nổ thì phải dập tắt ngay không cho lan rộng.
  3. Tập trung các đối sách vào những nhóm quần chúng có nhiều biểu hiện gây bất ổn: Sắc tộc, tôn giáo, nông dân, sinh viên, công nhân.

Ngoài những biện pháp nói trên, các lãnh tụ Trung Quốc dùng chính sách đối ngoại để chứng tỏ với dân chúng trong nước rằng họ là những nhà lãnh đạo vững vàng, có khả năng. Đôi khi họ cũng còn xử dụng chính sách đối ngoại mạnh tay để lôi cuốn sự chú ý của dân chúng ra khỏi các vấn đề quốc nội, một chiến thuật mà Tây phương mệnh danh là "wag the dog", tức là đánh lạc hướng dư luận. Các lãnh tụ Trung Quốc thích trò biểu dương này bởi vì họ có nhu cầu phải đi trước sự phát triển của khuynh hướng quốc gia chủ nghĩa đang lớn mạnh này. Điều quan ngại của các lãnh tụ Cộng sản là một phong trào quốc gia có thể đem những nhóm bất mãn khác nhau — như công nhân bị sa thải, nông dân, và sinh viên — vào dưới cùng một lá cờ quốc gia chủ nghĩa. Những bài học về sự sụp đổ của Nhà Thanh năm 1911 và của Cộng Hoà Trung Hoa năm 1949 vẫn đậm nét trong đầu các lãnh tụ Bắc Kinh. Chế độ nào có vẻ yếu đuối trước áp lực ngoại bang đều có triển vọng xụp đổ.

Mặc dù có những chính sách đối phó các bất ổn xã hội như vậy, nhưng theo Tác giả thì lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn bị ám ảnh những cuộc nổi dậy của dân chúng. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết rất rõ là mối đe dọa chính trị lớn nhất trước mặt là sụ khủng hoảng kinh tế có thể xẩy ra khiến hàng triệu người thất nghiệp hoặc khiến cả triệu thân chủ kéo tới các ngân hàng vốn còn yếu để đòi rút tiền ra. Một tai họa to lớn về môi sinh hoặc sức khoẻ cũng có thể khiến chế độ xụp đổ, đặc biệt khi sinh mạng người dân bị nguy khốn vì truyền thông đã, theo lệnh của Đảng, dấu diếm che đậy không chịu phổ biến tin tức liên hệ. Nổi loạn toàn quốc là điều có thể xảy ra khi một số lớn dân chúng bất bình về một vấn đề nào đó vào cùng một thời điểm. Một thí dụ khác là có thể có một cuộc khủng hoảng nội địa hay quốc tế nào đó đã khiến đảng Cộng sản cảm thấy phải công kích Nhật Bản, Đài Loan, hay Hoa Kỳ vì, theo quan niệm của họ, không công kích có thể để lộ sự yếu đuối trước dân chúng và do đó có hại cho uy tín của Đảng. [1]

Để giữ quân đội đứng cùng một phiá với đảng, lãnh đạo Bắc Kinh đã tiến hành các biện pháp:

  1. Hiện đại hóa quân đội nhưng luôn luôn đặt dưới sự quản lý của đảng qua Quân ủy Trung ương.
  2. Tuy Quân Ủy Trung ương có quyền tự trị khá rộng lớn để quyết định các vấn đề quốc phòng. Tuy nhiên, khi một vấn đề quân sự có dính dáng hệ trọng tới chính trị, kinh tế, và ngoại giao, như về Đài Loan hay liên hệ Trung Hoa-Nga thì Quân ủy Trung ương và những bộ phận trong Bộ Tổng Tham Mưu phải hội ý và nghe ý kiến chỉ đạo từ Thường vụ Bộ chính trị.
  3. Ưu đãi về ngân sách cho bộ máy quốc phòng.

Tuy đặt quân đội nằm trong tầm kiểm soát của mình, nhưng đa số các lãnh tụ Trung Quốc hiện nay không xuất thân từ quân đội. Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào đều biết là họ không thể trông chờ một lòng thủy chung tự động của quân đội đối với họ. Do đó mà họ phải dùng tiền để chi phối. Với việc biến đoàn cảnh sát võ trang của quân đội thành tuyến đầu chống lại tình trạng bất ổn nội địa, giới lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc hy vọng làm giảm thiểu sự ngần ngại của quân đội nếu phải bắn vào dân biểu tình - hoặc ngay cả quay mũi súng lại giới lãnh đạo dân sự - trong một vụ Thiên An Môn thứ hai nếu xảy ra. Ông Hồ Cẩm Đào có vẻ gặp phải một số khó khăn trong việc gây cảm tình với quân đội. Việc kêu gọi "lòng trung thành tuyệt đối đối với đảng" của quân nhân hiện nay có vẻ như một réo gọi khác thường. Họ Hồ đã không thăng cấp tướng nhiều bằng họ Giang. Theo nhận xét của nhiều sĩ quan quân đội thì Hồ Cẩm Đào "rất quan tâm" tới sự ổn định trong hàng ngũ quân đội.

Ở Trung Quốc, khi chính sách đối ngoại do một nhóm nhỏ lãnh tụ làm ra thì thường là chính sách đúng, linh động và thực tiễn. Khi có đông người dính vào thì chính sách vừa cứng, vừa bảo thủ bởi các phe không muốn bị mang tiếng là thỏa hiệp với kẻ thù.

Mặt khác, theo Tác giả nhận xét thì đằng sau của việc tăng ngân sách cho quân đội là để chuẩn bị cho cuộc chiến giải quyết vấn đề Đài Loan nếu cần. Việc các vị nguyên thủ của Đài Loan đang có khuynh hướng tiến tới một nền độc lập chính thức là nguyên nhân chính, làm cho Bắc Kinh khó chịu. Khi tổng thống Bill Clinton đồng ý cho Tổng thống (Đài Loan) Lý Đăng Huy thăm viếng Hoa Kỳ để nói chuyện trong buổi họp mặt năm 1995 tại Đại học Cornell - nơi họ Lý đã từng theo học - giới lãnh đạo Trung Quốc chợt nhận ra nếu họ không cho Đài Loan thấy là họ sẽ dùng võ lực thực sự, chứ không phải chỉ dọa xuông, thì chẳng mấy chốc, vấn đề Đài Loan sẽ trở thành việc đã rồi. Sau khi Hoa Kỳ trả đũa việc Trung Quốc biểu dương lực lượng quân sự bằng việc gửi tới eo biển Đài Loan hai hàng không mẫu hạm, các lãnh tụ Trung Quốc bèn xuống thang, hiểu rằng khả năng quân lực Trung Hoa hãy còn yếu. Diễn biến này đã đưa đến bối cảnh quân đội nhận được tài trợ để sắm chiến đấu cơ và khu trục hạm của Nga, tăng cường huấn luyện trong việc phối hợp hành động giữa các binh chủng lục, hải, không quân và các lực lượng đầu đạn chiến lược và bắt đầu động viên dân sự địa phương để họ có thể trực tiếp hỗ trợ các đơn vị quân đội khi hữu sự, như cung cấp thuyền bè để đưa quân qua eo biển Đài Loan, và trang bị các đơn vị bán quân sự và trừ bị. [2]

Sau cùng, nhận định về vấn đề đối nội và đối ngoại ảnh hưởng như thế nào trong nội bộ thì theo Tác giả, trong quá khứ, chính sách đối ngoại ít khi là trọng tâm của những tranh chấp chính trị trong nội bộ đảng Cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên ngày nay, khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc soạn thảo chính sách đối ngoại họ phải ghi nhớ trong đầu phản ứng của những phe nhóm mà quyền lực chính trị của họ cần dựa vào, đó là các lãnh tụ khác, quần chúng, và quân đội... Phần lớn các chính sách đối ngoại của Trung Quốc rất thực tiễn nhằm tránh những va chạm quốc tế có ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc nội. Thế nhưng những vấn đề liên hệ tới đối ngoại đã được dân chúng để ý tới nhiều nhất thì lại chỉ được giải quyết một cách tượng trưng, bị nhìn như là nguyên tắc thay vì là những gì cần giải quyết: Đó là nguyên tắc Nhật Bản phải chuộc lỗi cho những lỗi lầm lịch sử của mình; nguyên tắc "một nước Trung Hoa" Đài Loan phải chấp nhận, và nguyên tắc chống lại sự độc tôn của Hoa Kỳ.

Các lãnh tụ Trung Quốc- cũng như những cán bộ của họ - mong được thăng quan tiến chức, thường chứng tỏ sức mạnh của mình qua việc tuân theo những nguyên tắc. Đi ngược lại những quan điểm chính trị chính chuyên của đảng về Nhật Bản, Đài Loan, và Hoa Kỳ, đòi hỏi một sự can đảm phi thường. Ở Trung Quốc, khi chính sách đối ngoại do một nhóm nhỏ lãnh tụ làm ra thì thường là chính sách đúng, linh động và thực tiễn. Khi có đông người dính vào thì chính sách vừa cứng, vừa bảo thủ bởi các phe không muốn bị mang tiếng là thỏa hiệp với kẻ thù. [3]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét